Nhà Lê suy sụp và
sự ra đời của triều Mạc
Ngay từ những năm
cuối thế kỷ XV, mô hình tổ chức nhà nước cũng như các chính sách của triều Lê
sơ đã bộc lộ những hạn chế và mâu thuẫn. Hệ thống quan lại hoàn bị, vốn là công
cụ quản lý nhà nước sắc bén, dần biến thành một bộ máy quan liêu cồng kềnh. Nạn
tham nhũng ngày càng trở nên phổ biến. Trước tinh hình đó, người kế nghiệp Lê
Thánh Tông là Lê Hiến Tông(1497 - 1505 ) đã có những cố gắng nhằm củng cố bộ
máy chính quyền, nhưng kết quả chẳng được là bao. Năm 1499, ông đã ra sắc lệnh
sa thải bớt lại viên trong bộ máy chính quyền từ trung ương đặt các địa phương.
Trong tờ sắc cho Thượng thư Bộ Lại có đoạn viết: "Ỷ vào phép nước là thói
tệ của bọn lại ... Trước đây, lựa chọn không công bằng, bọn lại quá nhiều, rất
nhũng tạp. Có kẻ ăn may, chỉ một nghề là được bổ dụng, có kẻ nhờ cậy nhiều ngón
mong được chỗ hơn, hối lộ công khai, thăng quan vượt cấp“. Đó chỉ là một phần
biểu hiện của thực trạng nghiêm trọng hơn. Mô hình tập quyền quan liêu không
còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội, đã bất lực trong việc điều
hành đất nước.
Sang đến đầu thế kỷ
XVI, nhất là từ sau khi Lê Uy Mục lên ngôi 1505, triều đình hoàn toàn mất hết
vai trò tích cực, lao vào con đường ăn chơi sa đọa. Bị người đương thời mệnh
danh là " vua quỷ ", Uy Mục là người u tối lại có tật nghiện rượu,
hoang dâm, hiếu sát. " Từ khi lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân
uống rượu vô độ. Khi rượu say thì giết cả dung nhân”. Bất chấp cả luật pháp,
nhà vua dung túng cho bọn quý tộc ngoại thích và hoạn quan lộng hành. Chúng
ngang nhiên hãm hại những người không cùng vây cánh, trắng trợn cướp bóc của
dân. Chính sự trong triều rối loạn. Các thế lực chống đối nổi lên khắp nơi. Một
nhóm tôn thất và công thần bị Uy Mục ngược đãi, đuổi về Thanh Hóa đã tập hợp
lại dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Lang. Ở Tây Đô, nhóm này đã xây dựng lực
lượng, tôn Lê Dinh lên làm minh chủ, công khai chống lại triều đình. Thay mặt
cho nhóm nổi dậy, Lương Đắc Bằng đã soạn hịch kể tội Uy Mục, trong đó có đoạn
viết: " Bạo chúa Lê Tuấn phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần
lữa mới gần 5 năm mà tội ác đã đủ muôn khoé... Quan tước đã hết rồi mà à vẫn
thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế
khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần
Chính".
Năm 1509, Lê Dinh
từ Thanh Hóa đem quân ra Thăng Long, lật đổ Uy Mục, giành lấy ngôi vua. Sau này
Lê Dinh được truy tôn làm Tương Dực đế nên sử sách thường gọi ông vua này là Lê
Tương Dực (1509-1516).
Lê Tương Dực cũng
không đưa ra được biện pháp gì mới để củng cố chính quyền. Mặc dù đội ngũ quan
lại cao cấp có những người hăng hái muốn thay đổi tình hình như Nguyễn Văn Lang
và Lương Đắc Bằng. Họ đã dâng lên 14 kế sách trị bình, vua cho là phải. Lại cho
soạn sách Trị bình bảo phạm gồm 50 điều để răn dạy quan lại và dân chúng, nhưng
cuối cùng cũng không được thực hiện. Trong khi đó, mâu thuẫn giữa các phe phái
trong triều ngày càng trở nên trầm trọng. Nhà vua là người thích ăn chơi xa
hoa, cho xây dựng thành quách, cung điện vô cùng tốn kém, sai Vũ Như Tô vẽ mẫu
làm đại điện hơn 100 nóc, xây cửu trùng đài cao ngất. Các công trình xây dựng
phải phá đi, chữa lại nhiều lần khiến binh lính và dân chúng khổ cực vì lao
dịch, bệnh tật, chết rất nhiều... Khi nói về Lê Tương Dực, các tác giả Đại Việt
sử ký toàn thư đã có lời bình: "Xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt nặng,
thuế khóa nhiều, giết hết các thân vương, can qua xảy ra khắp nơi, người thời
ấy gọi là vừa lợn ".
Lợi dụng sự tha hóa
của vua quan triều đình, những cuộc nổi dậy ở địa phương nổ ra ngày một nhiều.
Năm 1511, Thân Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng nổi dậy ở Kinh Bắc. Cuối năm đó, Trần
Tuân đấy binh đánh phá ở Sơn Tây. Năm 1512, dư đảng của Trần Tuân do Nguyễn
Nghiêm cầm đầu hoạt động mạnh ở vùng Sơn Tây, Hưng Hoá. Ở Nghệ An, dưới sự lãnh
đạo của các thủ lĩnh Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt, dân chúng cũng nổi dậy
chống lại triều đình. Khó khăn lắm quan quân triều đình mới đàn áp được. Tình
hình ổn định chưa được bao lâu thì năm 1515 tại vùng núi Tam Đảo lại nổ ra cuộc
nổi dậy do Phùng Chương lãnh đạo. Cùng năm, Ở Thanh Hoá, Đặng Hân và Lê Hất dấy
binh.
Những cuộc nổi dậy
nổ ra dồn dập và có quy mô ngày càng lớn vào năm 1516 . Vừa đàn áp xong Trần
Công Ninh ở Yên Lãng (Vĩnh Phúc) ,triều đình đã phải tập hợp lực lượng đối phó
với phong trào ở huyện Thủy Đường (Hải Phòng) do Trần Cao lãnh đạo. Phong trào
này đã liên kết với lực lượng nổi dậy ở Đông Triều do Phan Ất (một gia nô người
Chăm), Đình Ngạn, Đình Nghệ, Đình Bảo, Công Uẩn và Đoàn Bố cầm đầu. Phong trào
đã nhanh chóng làm chủ được hai huyện Thủy Đường, Đông Triều và nhiều vùng rộng
lớn khác của trấn Hải Dương. Quan quân triều đình đã nhiều phen khốn đốn vì
những cuộc tấn công của nghĩa quân .
Do có công lao
trong việc đánh dẹp và đàn áp các cuộc nổi dậy, thế lực các võ quan ngày càng
mạnh. Bọn này kiêu mạn, lũng đoạn triều đình và luôn tìm cách khuynh loát quyền
lực. Giữa năm 1516, lợi dụng tình thế rối ren, tướng Trịnh Duy Sản đã liên kết
với Lê Quảng Độ lập mưu giết chết Lê Tương Dực.
Tình hình chính trị
nhà Lê càng trở nên rối loạn khi nghĩa quân Trần Cao tiến đến sát kinh thành.
Hành động giết vua của nhóm Trịnh Duy Sản đã tạo nên sự phân liệt và mâu thuẫn
sâu sắc trong nội bộ triều đình. Kẻ muốn lập Quang Trị lên làm vua, người lại
đòi phải đưa Lê Y lên ngôi. Sự chia rẽ nội bộ đã dẫn tới một kết cục bi thảm.
Quang Trị (lúc ấy mới 8 tuổi) vừa được đặt lên ngôi ít ngày thì bị giết chết.
Triều thần lại tôn Lê Y, 14 tuổi lên ngôi Hoàng đế (trong sử gọi là Lê Chiêu
Tông). Không chống đỡ nổi các cuộc tấn công của nghĩa quân Trần Cao, triều Lê
đã phải bỏ thành Thăng Long chạy vào Tây Đô.
Cuối năm 1516, Trần
Cao chiếm được kinh thành Thăng Long, tự xưng là vua, đặt niên hiệu Ứng Thiên.
Nhưng chẳng bao lâu sau quân nhà Lê từ Thanh Hóa tiến ra, Trần Cao không chống
cự nổi, phải rút về Lạng Nguyên (Lạng Sơn), giao quyền cho con là Trần Cung,
rồi cắt tóc đi tu. Nghĩa quân cầm cự được đến năm 1521 thì bị dập tắt hoàn
toàn. Tình hình tạm yên ổn, nhưng thế lực của Mạc Đăng Dung, khi ấy là Thái phó
kiêm Tiết chế các doanh quân thủy bộ, đã lớn đến mức nhà vua không chế ngự nổi.
Để thâu tóm hoàn toàn quyền lực , năm 1522 Mạc Đăng Dung cùng với những người
cùng phe cánh đã phế truất Lê Chiêu Tông, lấy người em của nhà vua là Lê Xuân
lên ngôi Hoàng đế (Cung Hoàng đế). Trong vòng 5 năm, các phe phái chống đối lần
lượt bị đánh bại.
Năm 1527, khi thực
tế mọi quyền lực đã nằm trọn trong tay, Đăng Dung bắt ép Cung Hoàng đế nhường
ngôi, lập ra nhà Mạc.
Mạc Đăng Dung quê
gốc ở xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay thuộc xã Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương). Tiên tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên triều Trần. Đến đời
thứ tư chuyển về xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện
Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng). Thửa nhỏ, gia đình Mạc Đăng Dụng làm nghề đánh
cá. Nhờ ló sức khoẻ và giỏi võ mà thi đỗ Lực sỹ. Năm 1508, thời Lê Uy Mục, được
sung làm Đô chỉ huy sứ vệ Thần vũ. Trong vòng hơn 10 năm, trải qua ba triều
vua, do có công đàn áp các cuộc nổi dậy và dẹp loạn trong triều, Mạc Đăng Dung
nhanh chóng được phong đến rước hiệu cao nhất của nhà Lê (Vũ Xuyên bá: năm
1511; Vũ xuyên hầu: năm 1518; Minh quận công: năm 1519; Nhân quốc công: năm
1521; An Hưng vương: năm 1527).
Mở đầu một vương
triều mới trong bối cảnh chính trị không thuận lợi, nhà Mạc tập trung củng cố
chính quyền và kỷ cương đất nước vốn đã trở nên vô cùng rệu rã bằng cách tổ
chức lại bộ máy quan lại. Hệ thống luật pháp hoàn bị của nhà Lê về cơ bản vẫn
được duy trì, nhưng vào cuối năm 1528 Mạc Đăng Dung đã giao cho Nguyễn Quốc
Hiến xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là các
chính sách liên quan đến điền chế, lộc chế. Để có quân đội mạnh và chỉ huy
thống nhất, nhà Mạc đã chấn chỉnh binh chế, phiên chế, tổ chức lại lực lượng
các vệ, phủ, sở, ty. Nhà Mạc đặt ra 4 vệ Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô.
Bốn vệ này thống lĩnh toàn bộ quân đội thường trực ở kinh thành và 4 trấn quan
trọng (Hải Dương, Sơn Nam ,
Sơn Tây và Kinh Bắc). Ngoài ra, quân ở các đạo được phiên chế thành các đơn vị
trực thuộc vào 5 phủ .
Làm vua được 3 năm,
Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lên làm Thái Thượng hoàng.
Trong vòng 5 năm đầu, nhà Mạc đã cố gắng đưa tình hình dần đi vào thế ổn định.
Mặc dù có thái độ không thiện cảm với triều Mạc nhưng các tác giả Đại Việt sử
ký toàn thư, khi chép các sự kiện trong giai đoạn này đã có nhận xét: “Từ đấy,
người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp,
trâu bò thả chăn không phải đem về... Trong khoảng vài năm, người đi đường
không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm
yên".
Nếu như chính sách
đối nội có một số mặt tích cực, cởi mở. tạo tiền đề cho sự phát triển của đất
nước về mặt kinh tế và văn hoá, thì chính sách đối ngoại, nhất là trong quan hệ
với nhà Minh, nhà Mạc lại tỏ ra hết sức lúng túng. Lợi dụng tình hình rối loạn
ở Đại Việt, nhà Minh thường cho người sang dọa dẫm, sách nhiễu. Lo sợ lực lượng
cựu thần nhà Lê và muốn tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh, trước những hành động
như thế, nhà Mạc chọn giải pháp thoả hiệp, đem vàng bạc, châu báu đút lót để
được yên ổn. Được thể nhà Minh càng lấn tới. Sau khi biết tin các lực lượng ủng
hộ triều Lê đã tìm được con trai Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh để tôn lên làm
vua, năm 1537, vua Minh sai Cừu Loan và Thượng thư Bộ Binh Mao Bá Ôn đem một
đạo quân xuống vùng biên giới phía nam và phao tin sẽ đánh Đại Việt. Trong tình
thế bức bách và mong được nhà Minh công nhận để yên tâm đối phó với lực lượng
cựu thần nhà Lê, nhà Mạc đã phải đáp ứng những yêu sách của nhà Minh. Năm 1540,
Mạc Đăng Dung cùng với 40 viên quan đem sổ sách lên tận cửa Nam Quan để nộp và
trả lại nhà Minh đất 5 động vùng Đông Bắc, vốn được sáp nhập vào Đại Việt từ
thế kỷ XV.Việc làm này của Mạc Đăng Dung đã gây nên sự bất bình trong nhiều
quan lại và dân chúng, khiến nhà Mạc dần dần lâm vào tình thế cô lập. Những
người ủng hộ triều Lê ngày càng có điều kiện thuận lợi để tập hợp lực lượng
chống lại.
Triều Lê Trung hưng
và cục diện Nam
- Bắc triều
Mạc Đăng Dung giành
được ngôi vua nhưng lực lượng ủng hộ nhà Lê còn rất mạnh. Ngay từ năm 1530, một
hoàng tộc nhà Lê là Lê Ý cùng với một số bộ tướng đã dấy binh ở Thanh Hoá. Lực
lượng này phát triển nhanh chóng, có lúc lên tới vài vạn người. Cuộc chiến kéo
dài gần một năm. Mặc dù cuộc nổi dậy bị thất bại nhưng lực lượng của nhà Mạc
cũng bị tổn thất nặng nề.
Năm 1531, nhóm cựu
thần nhà Lê do Lê Công Uyên cầm đầu, sau khi tổ chức tấn công vào Thăng Long
không thành ( năm 1528 ) phải chạy vào đất Thanh Hoá, đã chiêu tập một đội quân
ô hợp tự xưng là quân nhà Lê,kéo nhau đi chiếm cứ các quận, huyện. Quân Lê Uyên
đi đến đâu thường bắt người, cướp của, đốt phá nhà cửa , khiến cho dân chúng vô
cùng khổ cực. Khi bị quân nhà Mạc tấn công, đội quân này bị tan rã và thất bại
nhanh chóng.
Trong khi nhà Mạc
đang phải đối phó với các cuộc nổi dậy chống đối trong nước, An Thành hầu
Nguyễn Kim, vốn là Thanh Hoa hữu vệ Điện tiền tướng quân dưới triều Lê, được sự
giúp đỡ của vua Ai Lao, đã bí mật xây dựng lực lượng ở Sầm Châu (nay là tỉnh
Sầm Nữa của Lào). Năm 1533, Nguyễn Kim cho đón Lê Duy Ninh sang Ai Lao, tôn lên
làm vua, lập lại triều Lê.
Từ khi có danh
nghĩa chính thống, Nguyễn Kim đã quy tụ được hầu hết các lực lượng cựu thần nhà
Lê. Thế lực Nguyễn Kim ngày càng mạnh lên. Trong khi đó sự kiểm soát của nhà
Mạc từ Thanh Hóa trở vào nam rất yếu. Năm 1537, một viên tướng được giao quản
lĩnh 7 huyện của Thanh Hóa là Lê Phi Thừa đem quân chạy sang Ai Lao đầu hàng
nhà Lê. Nhân cơ hội đó, từ năm 1539 đến năm 1543, quân nhà Lê từ Ai Lao đã mở
các cuộc tấn công về Nghệ An và Thanh Hoá. Quân nhà Mạc thất bại liên tiếp.
Cuối năm 1543, nhà
Lê chiếm được Tây Đô. Thanh Hoá, Nghệ An trở thành vùng đất đứng chân của vua
Lê. Từ thời điểm đó, trên đất nước cùng tồn tại hai vương triều: Mạc và Lê. Hai
thế lực tranh chấp nhau khiến cho đất nước lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn. Về
danh nghĩa triều Lê đã được phục hồi, nhưng ngay từ những ngày đầu người nắm
thực quyền điều hành mọi công việc là Thái sư Nguyễn Kim. Năm 1545, Nguyễn Kim
bị một hàng tướng nhà Mạc đầu độc. Người thay thế vị trí Nguyên Kim tiếp tục
cuộc chiến tranh với nhà Mạc là Trịnh Kiểm. Từ đây họ Trịnh kế tục nhau nắm
quyền chi phối triều Lê. Năm 1546, sau khi đã làm chủ được cả một vùng rộng lớn
từ Thanh- Nghệ trở vào Nam, Trịnh Kiểm cho xây dựng thành quách, lập cung điện,
tổ chức quan lại như một triều đình thực sự. Để phân biệt, sử sách thường gọi
triều Mạc đóng đô ở Thăng Long là Bắc triều và triều Lê Trung hưng ở Thanh Hóa
là Nam
triều.
Cuộc nội chiến Nam-
Bắc triều kéo dài gần 50 năm với gần 40 trận chiến lớn nhỏ có thể chia thành 3
giai đoạn chính :
+ Từ năm 1545 -
1569 là giai đoạn Nam triều giành thế chủ động, liên tục tấn công ra Bắc. Lợi
dụng tình trạng lục đục trong nội bộ triều Mạc, quân Trịnh đã tổ chức 11 lần
xuất quân đánh phá các trận vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó nơi thường xuyên
phải chịu cảnh binh lửa là trấn Sơn Nam. Trong giai đoạn này quân nhà Mạc cũng
mở được 4 lần tấn công vào Thanh Hoá, nhưng kết cục không bên nào giành được
thắng lợi quyết định.
+ Từ 1570 - 1583 là
giai đoạn quân Mạc phản công. Sau khi Trịnh Kiểm qua đời, nội bộ Nam triều phát
sinh mâu thuẫn. Trong lúc hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh giết nhau,
Mạc Kính Điển đã huy động 10 vạn quân với 700 chiến thuyền vượt biển đánh vào
Thanh Hoá. Trịnh Cối cùng với 2 vạn quân buộc phải đầu hàng.Bộ phận còn lại của
Nam triều do Trịnh Tùng chỉ huy rút chạy lên vùng thượng lưu sông Chu, sông Mã
để cố thủ. Sau 8 tháng tiến công nhưng không tiêu diệt được quân Trịnh, cuối
năm ấy quân Mạc phải rút về Thăng Long.Liên tục trong các năm sau, Bắc triều đã
tiến hành 12 cuộc tấn công lớn nhỏ vào Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Hóa nhưng
cuối cùng đều phải rút lui. Với những nỗ lực cao nhất nhằm đè bẹp lực lượng của
Nam triều, trong vòng hơn 10 năm, nhà Mạc đã điều động gần như cạn kiệt tiềm
lực của mình cho chiến tranh.
+ Từ 1583 - 1592 là
giai đoạn suy sụp của nhà Mạc. Quân Trịnh giành lại thế chủ động tấn công chiếm
lại được Thăng Long. Vốn đã để mất lòng dân và đội ngũ quan lại vì chính sách
đối ngoại thỏa hiệp, lại tiêu phí quá lớn sức người sức của vào các cuộc chiến
tranh phe phái, từ những năm 80 nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Quan quân chán nản,
lòng người ly tán. Nhiều người bỏ việc về quê. Có người chạy sang đầu hàng Nam triều.
Không đủ sức mở các cuộc tấn công lớn như giai đoạn trước, năm 1585, Mạc Mậu
Hợp tập trung xây dựng thành lũy để phòng thủ.
Trong bối cảnh đó,
lực lượng Nam
triều được củng cố lại đã liên tục giành được những thắng lợi quan trọng. Cuối
năm 1591, Trịnh Tùng điều động 6 vạn quân chia làm 5 đạo theo đường phía tây
tiến ra Bắc. Để đối phó lại, nhà Mạc cũng đã huy động một lực lượng tới 10 vạn
quân. Một trận quyết chiến giữa hai bên đã diễn ra ở Sơn Tây. Trong trận này
quân Mạc đại bại, thương vong tới 1 vạn người. Thừa thắng, Trịnh Tùng cho quân
áp sát thành Thăng Long, " đốt phá nhà cửa, khói lửa ngợp trời " để
uy hiếp.
Năm 1592, quân Nam
triều mở cuộc tấn công quyết định vào Thăng Long. Trịnh Tùng giành toàn thắng.
Cục diện chiến tranh Nam- Bắc triều về cơ bản đã kết thúc, nhưng con cháu nhà
Mạc cùng một số tướng tá và tàn quân bỏ chạy lên Cao Bằng hoạt động cho đến tận
năm 1677 mới chấm dứt hoàn toàn.
Năm 1592, Trịnh
Tùng xưng vương và xây dựng Vương phủ (phủ Chúa) bên cạnh triều đình nhà Lê. Từ
đó, hình thành cục diện một chế độ với hai chính quyền. Vua Lê chỉ tồn tại trên
danh nghĩa còn mọi quyền hành trong nước đều do chúa Trịnh quyết định.
Đại
Việt – thời kỳ phân liệt Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1777)
Ngay từ khi cuộc
chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ Nam triều đã nảy sinh
mầm mống chia rẽ.Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị sát hại, vua Lê trao mọi quyền
bính cho Trịnh Kiểm. Hai họ Trịnh – Nguyễn vốn đã từng được gắn kết bởi mục
đích chung giúp vua Lê dựng lại cơ nghiệp, lại được thắt chặt thêm bằng quan hệ
hôn nhân (Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim), đến đây bị rạn nứt. Để thâu tóm mọi
quyền lực, Trịnh Kiểm tìm mọi cách loại bỏ ảnh hưởng của họ Nguyễn. Mâu thuẫn
giữa hai thế lực đạt đến độ gay gắt khi người con trai trưởng của Nguyễn Kim là
Tả tướng Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Em trai của Uông là Nguyễn
Hoàng, theo lời gợi ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ
Trịnh Kiểm) xin cho được vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Việc ra đi của Nguyễn
Hoàng, như lịch sử đã cho thấy, không phải chỉ để bảo toàn tính mạng, mà là
thực hiện bước mở đầu cho một chiến lược lâu dài: xây dựng lực lượng chống lại
họ Trịnh. Đất Thuận Hóa trở thành nơi dấy nghiệp của họ Nguyễn.
Thuận Hóa vốn là
đất cũ của Champa, được sáp nhập dần dần vào lãnh thổ Đại Việt bắt đầu từ thời
Lý. Sau khi bị thất bại trong luộc chiến tranh năm 1069, vua Champa Rudravarman
III đã cắt cho Đại Việt 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Lanh (tương đương với
vùng đất từ huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đến huyện Do Linh, tỉnh Quăng Trị).
Năm 1306, để cưới công chúa Huyền Trân, quốc vương Simhavarman III (Chê Mân)
lại cắt 2 châu Ô và Lý (tương đương với vùng đất từ huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị đến huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) cho nhà Trần làm sính lễ. Năm
sau nhà Trần đổi tên hai châu này thành Thuận châu và Hóa châu. Đến thời Lê
Thánh Tông chia cả nước thành 13 xứ, trong đó có xứ Thuận Hóa bao gồm một vùng
đất từ phía nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân.
Cuối năm 1558,
Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, tùy tùng và họ hàng thân thuộc ở huyện Tống Sơn vào
Thuận Hóa. Năm sau, vùng Thanh Hoá, Nghệ An bị lụt to, hàng trăm ngàn gia đình
bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân đói khổ, nhiều người đã kéo nhau
vào đất Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai. Khi Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ, đây
còn là một vùng dân cư thưa thớt, kinh tế kém phát triển. Theo mô tả của sử cũ,
trên con đường giao thông chính chạy dọc Thuận Hóa đến tận đèo Hải Vân chỉ có 4
cái quán nhỏ; cả xứ chỉ có 3 cái chợ.
Để lôi kéo nhiều
người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, Nguyễn Hoàng và những cộng sự của ông đã
thực thi một chế độ cai trị khoan hòa, khuyến khích sản xuất. Sách Đại Nam
thực lục có nhận xét: " Chúa vỗ về thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng,
được dân mến phục, thường gọi là chúa Tiên ".
Đối với triều Lê,
Nguyễn Hoàng tỏ ra hết sức mềm dẻo, khiến cho họ Trịnh không chút nghi ngờ. Sau
hơn 10 năm làm Trấn thủ Thuận Hóa, năm 1570, Nguyễn Hoàng được tin cậy giao cho
kiêm lãnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam .
Xứ Quảng Nam thời
kỳ này bao gồm dải đất miền Trung từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông, vốn là đất
Champa, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt sau hai cuộc chiến tranh lớn. Lần thứ
nhất xảy ra vào năm 1402, sau khi thất bại trước đại quân do Hồ Hán Thương chỉ
huy, Champa phải cắt đặt Chiêm Động và Cổ Lũy (tương đương với vùng đất phía
nam tỉnh Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi ngày nay). Cuộc chiến lần thứ hai xảy ra
vào năm 1471 dưới thời Lê Thánh Tông. Sau sự kiện này, đèo Cù Mông trở thành
biên giới phía nam của Đại Việt .
Có trong tay quyền
cai quản toàn bộ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục giữ
vẻ bề ngoài hòa hiếu với chính quyền Lê - Trịnh, góp sức với Nam triều trong
cuộc chiến tranh chống lại nhà Mạc, nhưng đồng thời hết sức chú trọng phát
triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt . Lê Quý Đôn, một quan lại cao
cấp của họ Trịnh, đứng trên lập trường đối địch, khi đánh giá về Nguyễn Hoàng
cũng phải thừa nhận:"Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không
ai dám lừa dối...chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, phép
tắc công bằng, nghiêm giữ quân sỹ có kỷ luật, cấm chấp kẻ hung bạo . Quân dân
hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám ơn mến
đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm không phải
đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai cũng cố
gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp".
Khi cục diện Nam - Bắc triều
kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn đến ngày không
thể dung hòa. Sau hơn 40 năm gây dựng lực lượng, trước khi qua đời vào năm
1613, Nguyễn Hoàng đã nói rõ ý định của mình với con cháu và thuộc hạ trong lời
trăng trối: "Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía nam
có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là một nơi để cho người anh
hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân , luyện tập binh sỹ, kháng cự lại họ
Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời ". Người trực tiếp thực hiện
lời di huấn ấy là Nguyễn Phúc Nguyên.
Phúc Nguyên là con
trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng. Ngay từ lúc còn trẻ đã tỏ ra là một anh kiệt.Năm
1585, khi mới 22 tuổi đã chỉ huy một thủy đội đánh thắng 5 chiếc tầu lớn của
nước ngoài đến xâm phạm vùng biển Cửa Việt. Năm 1602 được Nguyễn Hoàng giao cho
làm trấn thủ xứ Quảng Nam,Phúc Nguyên đã có nhiều công lao trong việc mở mang
thương cảng Hội An và phát triển thương mại quốc tế.
Ngay sau khi thay
cha làm trấn thủ Thuận- Quảng, Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, sắp đặt lại hệ
thống quan ải, cải tổ bộ máy cai trị. Năm 1614 ba ty Đô, Thừa, Hiến theo hệ
thống của nhà Lê bị bãi bỏ, thay bằng ty Xá sai, ty Tướng thần và ty Lệnh sử.
Năm sau, quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban
hành. Năm 1618, chính quyền họ Nguyễn tiến hành đo đạc lại ruộng đất hai xứ,
làm cơ sở cho việc quản lý. Đối với nhà Lê, khác với cha, Nguyễn Phúc Nguyên
tìm mọi cách thoái thác việc cống nạp. Tình hình trở nên căng thẳng vào năm
1620 khi Trịnh Tráng sai Đô đốc Nguyễn Khải đem 5000 quân đến cửa biển Nhật Lệ
để uy hiếp. Có lúc, nhân họ Trịnh rối ren (Trịnh Tùng chết năm 1623), Phúc
Nguyên đã toan cất quân đánh ra Bắc, nhưng rồi lại thôi. Trịnh Tráng lên thay
Trịnh Tùng thi hành chính sách cứng rắn với họ Nguyễn. Năm 1627, chiến tranh đã
nổ ra. Trên thực tế đất nước bị chia cắt làm hai miền. Vùng đất từ đèo Ngang
trở ra Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài.
Đất Thuận - Quảng được gọi là Đàng Trong.
Trong vòng 45 năm,
quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy mô lớn vào Đàng Trong các năm 1627, 1633,
1643, 1648, 1661 và 1672. Nhìn toàn cục, lực lượng quân Trịnh mạnh hơn. Có thời
kỳ, quân Trịnh đã huy động tới 20 vạn quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500
thuyền vận tải và 500 voi cho một trận đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực
của Đàng Trong chỉ có khoảng 4 vạn bộ binh với 200 chiến thuyền. Nhưng do phải
điều động quân đi xa và gặp rất nhiều khó khăn trước hệ thống lũy phòng ngự
kiên cố của quân Nguyễn nên quân Trịnh không lần nào giành được thắng lợi quyết
định.
Ngay từ giai đoạn
đầu của cuộc chiến tranh, Nguyễn Phúc Nguyên đã có được một nhà quân sự tài
giỏi thời bấy giờ là Đào Duy Từ trợ giúp. Họ Nguyễn đã cho xây dựng hàng loạt
chiến lũy phòng thủ, trong đó lũy Trường Dục dài đến 10km, lũy Đồng Hội (còn gọi
là luỹ Thầy) cao 6m dài tới 18km.Phía bên ngoài có rào bằng sắt. Phía bên trong
làm bậc để binh sỹ, ngựa, voi có thể đi lại được. Trên mặt lũy cứ 20m lại có
một công sự đặt một khẩu đại pháo, 4m lại có một khẩu súng quá sơn (pháo nhỏ).
Năm 1655, quân Nguyễn
đánh ra Đàng Ngoài. Cuộc chiến kéo dài 5 năm, quân Nguyễn mới bị đẩy lui khỏi
đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã lôi kẻo cả người nước ngoài vào
cuộc, mà kết cục không bên nào thôn tính được bên nào, năm 1672 cuộc chiến
tranh chấm dứt (*). Sông Gianh trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai miền. Nhìn
bề ngoài thì đây là cuộc chiến tranh không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo
mục đích thì bên thất bại là chính quyền Lê - Trịnh. Họ Nguyễn đã bước đầu thực
hiện được ý đồ của mình trong việc tách Đàng Trong ra thành một giang sơn
riêng.
Nguồn: Tiến trình
Lịch Sử Việt Nam
– Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Chủ biên PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 137 đến 141
(*) Trong gần nửa
thế kỷ đã diễn ra 7 lần đánh nhau giữa quân đội của họ Trịnh và quân đội của họ
Nguyễn.
Lần thứ nhất
(1627). Năm 1623, Trịnh Tráng thay Trịnh Tùng nắm giữ binh quyền, chuẩn bị đánh
họ Nguyễn. Liên tục trong các năm 1624, 1626, 1627 đều phái một quan đại thần
vào Thuận Quảng đòi chúa Nguyễn nộp thuế hoặc đòi chúa Phúc Nguyên ra Thăng
Long chầu vua Lê, nhưng họ Nguyễn đều khước từ. Bởi vậy, vào tháng 3-1627,
Trịnh Tráng chỉ huy quân Trịnh tiến vào đánh họ Nguyễn. Quân Trịnh đánh thắng
quân Nguyễn ở bờ bắc sông Nhật Lệ, nhưng nghe tin đồn do quân Nguyễn tung ra
rằng anh em Trịnh Gia, Trịnh Nhạc đang chuẩn bị nổi loạn cướp ngôi chúa Trịnh,
Tráng nghi hoặc liền rút quân về bắc, kết thúc cuộc chiến tranh lần thứ nhất
giữa Trịnh và Nguyễn.
Lần thứ hai (1633).
Năm 1633, nhân có người con thứ 3 của Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam tranh
giành quyền bính trong nội bộ chính quyền Thuận Quảng nên đã bí mật cho người
ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh, và thoả thuận khi bắn súng làm
hiệu, sẽ nổi lên làm nội ứng cho quân Trịnh. Trịnh Tráng liền tự mình dẫn đại
quân thuỷ bộ tiến vào Nhật Lệ và bắn súng làm hiệu nhưng không có nội ứng từ
phía quân Nguyễn. Sau một tuần chờ nội ứng không được, quân Nguyễn tung quân
xông ra đánh, quân Trịnh thua to phải rút quân về, kết thúc cuộc chiến lần thứ
hai.
Lần thứ ba (1643),
Trịnh Tráng thấy chúa Nguyễn ráo riết luyện tập quân lính, chuẩn bị lực lượng,
có ý đánh họ Trịnh, nên đã tiến quân vào đánh họ Nguyễn ở cửa Nhật Lệ. Quân
Trịnh đánh luỹ Trung Hoà (Quảng Bình) không được lại bị bệnh tật, quân lính
chết nhiều, buộc Trịnh Tráng phải rút quân về.
Lần thứ tư (1648).
Đầu năm 1648, nhân có Tống thị là chị dâu của Phúc Lan gửi thư cho cha là Tống
Phúc Thông (mới bỏ theo Trịnh) yêu cầu chúa Trịnh đem quân vào đánh chúa
Nguyễn, sẽ tình nguyện giúp lương thực, Trịnh Tráng bèn cử đại quân do Đô đốc
quận công Lê Văn Hiểu tiến vào đánh họ Nguyễn. Quân Trình đánh vào lũy Trường
Dục nhiều lần không đưược, lại bị đại quân của chúa Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến
chỉ huy đánh bại, buộc phải rút chạy về Thăng Long. Quân Nguyễn đuổi đánh đến
tận Nghệ An mới chịu quay lại.
Lần thứ năm
(1655-1660). Đây là lần đánh nhau lâu nhất giữa quân Trịnh và quân Nguyễn và là
lần duy nhất trong 7 lần đánh nhau, quân Nguyễn chủ động tấn công trước. Năm
1648, Phúc Lan chết, Phúc Tần lên thay thế, tích cực chuẩn bị lực lượng tấn
công ra Bắc sau khi đã đánh bại quân Trịnh lần thứ 4. Năm 1655, có tin báo
tướng Trịnh ở bắc Bố Chính thường đem quân qua sông lấn cướp nam Bố Chính, Phúc
Tần quyết định cử đại quân do Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật chỉ huy tấn
công ra bắc. Quân Nguyễn đánh bại quân Trịnh ở bắc Bố Chính, ở Hoành Sơn, đánh
đuổi quân Trịnh đến Nghệ An.
- Quân Nguyễn làm
chủ cả vùng bắc Bố Chính và 7 huyện phía nam sông Lam (Kỳ Hoa, Thạnh Hà, Thiên
Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương). Mãi tới tháng 10 năm 16601,
Trịnh Căn vào Nghệ An đốc thúc quân Trịnh đánh quân Nguyễn mới lấy lại được bảy
huyện ở vùng nam sông Lam và bắc Bố Chính.
Lần thứ sáu
(1661-1662). Cuối năm 1661, Trịnh Tạc thân chinh đem đại binh tiến vào đánh họ
Nguyễn. Sau nhiều lần đánh vào nam Bố Chính nhưng không phá được lũy, quân sĩ
mệt mỏi, lương hết, nên đến tháng 3-1662, Trịnh Tạc phải rút quân về Bắc.
Lần thứ bảy (1672).
Sau trận thua ở nam Bố Chính năm 1662, họ Trịnh bị cuốn hút vào cuộc đánh dẹp
họ Mạc ở Cao Bằng, không có thì giờ dòm ngó đến phía nam. Mãi đến giữa năm
1672, Trịnh Tạc mới tự làm tướng chỉ huy đại quân vào đánh họ Nguyễn. Trịnh Căn
được cử làm nguyên soái chỉ huy thuỷ quân, Lê Thì Hiếu chỉ huy quân bộ, Trịnh
Tạc làm tổng chỉ huy. Quân Trịnh vượt qua sông Gianh. Nguyễn Phúc Hiền cử con
trai thứ làm nguyên soái cùng các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Đức chia giữ
các nơi hiểm yếu. Phúc Hiền thân chinh chỉ huy quân tiếp ứng.
- Quân Trịnh tiến
đánh luỹ Trấn Ninh nhiều lần, phá được một phần lũy, nhưng quân Nguyễn do
Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy hết sức chống đỡ, nên quân Trịnh không sao vượt qua
được, phải lui về đóng quân ở bắc Bố Chính. Cuối năm 1672, trời mưa rét, quân
lính bị ốm đau nhiều, Trịnh Căn buộc phải ra lệnh lui quân, để Lê Thì Hiếu ở
lại trấn thủ Nghệ An. Từ đó, sông Gianh được coi là biên giới tự nhiên giữa hai
miền.
Trong bảy lần đánh
nhau, sáu lần quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn. Kết cục sau bảy
lần giao chiến, không bên nào tiêu diệt được bên đối phương, phải ngừng đánh
nhau, lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đôi đất nước. Từ đó sử cũ thường gọi
là Đường ngoài và Đường trong.
ình
hình kinh tế, văn hóa ở các thế kỷ XVI - XVIII In
1. Bước phát triển
mới về Kinh tế
- Nông nghiệp:
Trong các thế kỷ
XVI-XVII đầu XVIII, đất nước diễn ra các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn
phong kiến cầm quyền (Mạc - Trịnh, Trịnh - Nguyễn...) và điều đó đã ảnh hưởng
xấu đến sản xuất nông nghiệp, nhất là vào các thời điểm quyết liệt của cuộc
chiến ở những vùng trở thành bãi chiến trường. Trong hoàn cảnh đó, những người
trực tiếp sản xuất đã nỗ lực gấp bội để duy trì cuộc sống, xây dựng quê hương,
bản quán. Mặc dù nhà nước Lê - Trịnh ở Đường ngoài, chúa Nguyễn ở Đường trong
không còn đóng vai trò quan trọng được như thời Lý, Trần, Lê sơ, nhưng nông dân
ở cả hai vùng vẫn tiếp nối được truyền thống lao động cần cù, duy trì và trong
một mức độ, đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp phát triển.
Công cuộc khai
hoang lập làng xóm mới, mở rộng thêm diện tích đất đai canh tác tiếp tục được
thực hiện ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là vùng đồng bằng, ven biển.
Ở Đường ngoài, hàng
chục vạn mẫu đất đai được khai khẩn đưa vào sản xuất.
Ở vùng trung du
thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, công cuộc khẩn hoang cũng được tiến hành
mạnh. Nhiều người nuớc ngoài có mặt ở Đường ngoài thời đó đã rất ngợi ca sự trù
phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký sự về Đường ngoài đã để hẳn một
chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương quốc" này ("Vương quốc xứ
Đàng ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản
xuất. Nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bỏ hoang và những người
nội trợ giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập tức lại cày bừa ngay và gieo
hạt. Và như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3 vụ. Ở những nơi nào không trồng
lúa được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc
nào cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một khu rừng với một mùa xuân vĩnh
viễn".
Marini còn ca ngợi
sự giàu có, phong phú của các cây công nghiệp như mía, bông, đay, dâu. Lái buôn
Đampiê vào Đường ngoài năm 1688 cũng có nhận xét: "ở đây có nhiều thóc
gạo, nhất là ở các vùng đất thấp là chỗ được những con sông tràn ngập làm cho
màu mỡ. Hàng năm người ta cấy gặt hái mùa, thu hoạch được rất nhiều".
Đampiê ca ngợi sự
trù phú của nghề làm vườn, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng dâu nuôi tằm.
Trong Vân đài loại ngữ của nhà sử học nổi tiếng Lê Quý Đôn, tác giả đã viết về
sự phong phú của nông nghiệp Đường ngoài bấy giờ như sự phổ biến của cây ngô,
cao lương, kê, hàng loạt các loại giống lúa tẻ và nếp (tám giống lúa chiêm, 27
giống lúa mùa, 29 loại lúa nếp), hàng loạt loại hoa quả khác như: bảy thứ cam,
chín loại chuối, nhiều loại vải, quýt, xoài, v.v.. ông còn viết: "Đất
ruộng màu mỡ nghìn dặm, đồng bằng muôn khoảnh, một năm cấy được hai mùa, mỗi
mẫu sản xuất trị giá được hơn 200 quan tiền". Kỹ thuật sản xuất được đúc
kết trên cơ sở kinh nghiệm thực hiện bốn khâu: nước, phân, cần, giống.
Tình hình trên cho
thấy nền kinh tế nông nghiệp ở Đường ngoài trong các thế kỷ XVI-XVII đầu XVIII
vẫn có sự phát triển trên cả hai mặt quảng canh và thâm canh. Đây là một biểu
hiện rõ nét về sự ổn định của quan hệ sản xuất phong kiến và sự phát triển của
chế độ phong kiến ở Đường ngoài bấy giờ.
Ở Đường trong,
những người nông dân, nhất là lực lượng nông dân lưu tán đã tích cực và chủ
động đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai dưới những hình thức và quy mô khác
nhau (tự động khai phá, khai hoang do các nhà giàu, có thế lực đứng ra chiêu
tập, thuê mướn..)
Đối với những dân
lưu tán từ Đường ngoài vào vùng Thuận Quảng, chúa Nguyễn khuyến khích họ khẩn
hoang lập làng, ruộng đất khai khẩn trở thành công điền chia cho người khai phá
và họ nộp tô cho nhà nớc, có một bộ phận được nhà nước chia cho họ làm tư điền,
gọi là bản bức tư điền.
Đối với bộ phận
ruộng đất khẩn hoang do các nhà giàu có tổ chức khai khẩn, trong đó có một bộ
phận là những người cùng quê hương với chúa Nguyễn ở Thanh Hoá theo chúa vào
Thuận Quảng, còn đại bộ phận là các địa chủ ở miền Nam Bộ, thì nhà nước cho
phép biến thành ruộng đất tư của người chủ đứng ra tổ chức khai hoang. Ngoài
ra, các chúa Nguyễn còn sử dụng các tù binh và những người dân quê ở Nghệ An bị
bắt trong chiến tranh Trịnh - Nguyễn vào việc khẩn hoang.
Đối với các vùng
đất phía nam, ban đầu các chúa Nguyễn dựa vào những người Việt đã sinh sống lâu
đời ở đây lập thành xóm làng và tiếp tục công cuộc khẩn hoang. Về sau số người
lưu tán từ Thuận Quảng vào ngày càng nhiều, chúa Nguyễn đã cho phép và khuyến
khích các quan lại, địa chủ mộ người phiêu tán đi khẩn hoang và làm chủ tất cả
ruộng đất khai phá. Với cách khẩn hoang này, chúa Nguyễn đã tạo nên một tầng
lớp đại địa chủ rất giàu có ở Đường trong, là cơ sở xã hội vững chắc ủng hộ
chính quyền mới.
Các chúa Nguyễn còn
sử dụng quân đội vào công việc khai hoang lập đồn điền cho nhà nước.
Nhờ có chủ trương
đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai và nhờ vào sức lao động cần cù, bền bỉ của
những người dân lao động, trong đó có một bộ phận đông đảo từ Đường ngoài vào,
Đường trong đã trở thành một vùng đất trù phú, đất đai canh tác và làng xóm
được mở rộng. Theo sử cũ, cho đến giữa thế kỷ XVIII, Thuận Hoá đã có 265.507
mẫu trong số đó có 153.181 mẫu là ruộng đất đã sản xuất từ lâu đời. Như vậy,
trong thời kỳ các chúa Nguyễn đã mở rộng thêm được 112.326 mẫu. Năm 1674, tổng
số diện tích ruộng đất canh tác từ Quảng Nam vào đến Gia Định là 270.000 mẫu,
chưa kể diện tích đất bãi, đất quan đồn điền, quan điền trang của nhà nước.
- Ruộng đất ở Đường
trong gồm có hai bộ phận như ở Đường ngoài. Một bộ phận thuộc quyền sở hữu của
nhà nước và một bộ phận thuộc quyền sở hữu tư nhân, nhưng cũng có những đặc
điểm riêng.
Bộ phận ruộng đất
thuộc quyền sở hữu của nhà nước có hai loại: loại quan đồn điền và quan điền
trang và loại ruộng đất công ở các làng xã. Quan đồn điền và quan điền trang do
nhà nước trực tiếp quản lý tương tự như loại ruộng quốc khố, ruộng quan ở Đường
ngoài. Ở Thuận Hoá, loại ruộng này nhiều hơn ở các nơi khác, tổng số diện tích
loại này ở Thuận Hoá có tới 6494 mẫu quan đồn điền và 1524 mẫu quan điền trang
trong tổng số 153.181 mẫu ruộng đất của toàn xứ. Họ Nguyễn lấy một phần ruộng
đất này ban cấp cho tầng lớp quý tộc và quan lại cao cấp làm ngụ lộc, nhưng chế
độ ban cấp ruộng đất ở Đường trong rất nhỏ hẹp do tầng lớp quan lại quý tộc hầu
hết đã là những đại địa chủ do chính sách khẩn hoang của các chúa Nguyễn tạo
nên. Bổng lộc của quan lại chủ yếu là lấy ở dân. Ruộng đất cấp cho quan lại làm
ngụ lộc chỉ từ 10 mẫu (cho đại thần, quý tộc), chưởng cơ chỉ được 5 mẫu, cai cơ
4 mẫu, cai đội 4,5 mẫu, đội trưởng 2 hoặc 3 mẫu. Số điền trang, đồn điền còn
lại nhà nước giao cho dân cày và họ nộp tô theo quan hệ phát canh thu tô, hay
giao cho tù nhân cày cấy theo quan hệ nông nô. Trong thực tế, bộ phận quan đồn
điền, quan điền trang thuộc sở hữu riêng của nhà chúa, thu tô thuế để chi dùng
trong nội phủ của gia đình chúa Nguyễn.
Ruộng đất công làng
xã cũng thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà nước phong kiến. Nhà nước chia cho
nông dân cày và họ nộp tô theo định kỳ. Ruộng đất công chia làm ba hạng để quy
định suất phải nộp cho nhà nước:
Hạng 1: mỗi mẫu nộp
40 thăng thóc và 8 hợp gạo.
Hạng 2: mỗi mẫu nộp
30 thăng thóc và 6 hợp gạo.
Hạng 3: mỗi mẫu nộp
20 thăng thóc và 4 hợp gạo.
Đặc điểm của tình
hình ruộng đất ở Đường trong là ở vùng Thuận Quảng, loại công điền nhiều nhưng
càng vào phía nam tỷ lệ càng giảm dần và ở vùng Gia Định, công điền chỉ chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ. Phần lớn bộ phận ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân. Những
người có loại ruộng đất này là địa chủ, quan lại, nông dân tư hữu, chủ yếu là
của địa chủ, quan lại. Ở Nam bộ đã hình thành một tầng lớp đại địa chủ rất giàu
có, "mỗi nhà có đến 50, 60 điền nô, trâu bò có đến 300 con, cày bừa, trồng
cấy, gặt hái không lúc nào rỗi". Các chúa Nguyễn cho phép địa chủ, quan
lại được nuôi nô tỳ, hợp pháp hoá việc buôn bán nô tỳ "đem con trai con
gái người man ở các đầu nguồn bán cho dân làm nô tỳ. Người da nâu tóc quăn giá
tiền 20 quan một người, người da trắng hơn giá 10 quan. Chúng lấy nhau, sinh
sôi, khôn lớn, làm ruộng khoẻ nên thóc gạo ở đây rất nhiều’.
Giai cấp địa chủ ở
Đường trong chủ yếu cũng phát canh thu tô, bóc lột theo quan hệ địa chủ - tá
điền, nhưng ở một số nơi vẫn còn duy trì chế độ nô tỳ, trong khi chế độ nô tỳ ở
Đường ngoài đã suy tàn và về căn bản đã bị thủ tiêu.
Do có đất đai màu
mỡ, được khai khẩn nhiều, nhất là ở phương nam mà nền kinh tế nông nghiệp ở
Đường trong trong các thế kỷ XVI - XVII đầu XVIII khá phát triển.
- Sự phát triển của
kinh tế hàng hoá và sự hưng khởi của thành thị.
Những biến diễn và
phát triển của nông nghiệp trong các thế kỷ XVI-XVII và đầu thế kỷ XVIII đã có
tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá bấy giờ ở cả Đường
ngoài và Đường trong.
Sự tăng cường buôn
bán với các thương nhân nước ngoài và việc tiếp xúc với luồng thương mại tư bản
chủ nghĩa phương Tây càng kích thích thêm sự phát triển của kinh tế hàng hoá.
Thủ công nghiệp phát triển thêm một bước, buôn bán phồn vinh, những thành thị
hưng khởi, những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có điều kiện
nảy sinh. Trong nhân dân, các nghề thủ công truyền thống tiếp tục phát triển và
trở nên phổ biến rộng khắp ở nhiều làng xã. Nghề làm gốm được cải tiến, nâng
cao trình độ kỹ thuật và mỹ thuật, đã xuất hiện các lò gồm lớn nổi tiếng như
Chu Đậu, Hợp Lễ (Hải Dương), Bát Tràng nay thuộc Gia Lâm - Hà Nội. Nhiều làng,
nghề thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời như làng Mỹ Thiện (Quảng Ngãi),
Phú Trạch (Thừa Thiên) làm nồi đất nung, dệt chiếu, lụa hoa, làng Thổ Hà (Bắc
Ninh), Hương Canh (Phú Thọ) chuyên sản xuất chum vại, vò, chĩnh, làng Yên Thái
(Hà Nội) chuyên làm giấy... Nổi tiếng nhất là nghề dệt vải, lụa. Hầu như các
làng xã Đường ngoài đều làm nghề trồng bông dệt vải, chăn tằm dệt lụa. Người
nước ngoài đến Đường ngoài vào các thế kỷ XVII-XVIII đều có nhận xét rất giống
nhau về sự phát triển của nghề dệt vải, tơ lụa. Tơ trở thành một mặt hàng xuất
khẩu quan trọng bậc nhất. Các chúa Trịnh chuyên bán tơ cho các lái buôn Hà Lan.
Năm 1637, số tơ ở Đường ngoài có tới 3000 tạ. Năm 1644, Công ty Đông Ấn Hà Lan
đã mua ở Đường ngoài 645 tạ tơ, năm 1645 mua tăng lên 920 tạ tơ. Có nhiều làng,
phường lụa nổi tiếng như La Cả, La Khê, Cương Thôn, An Thái, Nghi Tàm.
Thủ công nghiệp
khai mỏ rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Nhiều mỏ được khai thác như
các mỏ đồng Tụ Long (Hà Giang), Liêm Tuyền (Thái Nguyên), Ngọc Uyển (Hưng Hoá),
Hoài Viễn (Lạng Sơn); mỏ bạc ở Tuyên Quang; mỏ vàng ở Kim Mã, Tam Lộng (Thái
Nguyên); kẽm ở Thái Nguyên; thiếc ở Cao Bằng. Để kiểm soát việc khai mỏ, chúa
Trịnh đặt các chức giám tương trông coi và thường xuyên cử quan lại đến kiểm
tra. Năm 1720, chúa Trịnh đặt phép đánh thuế chuyên lợi, quy định khắt khe việc
mua bán kim loại. Từ trong công nghiệp khai mỏ bấy giờ đã xuất hiện hiện tượng
thuê công nhân theo phương thức bóc lột giữa chủ và người làm thuê, đã có sự
phân công lao động trong sản xuất. Ngành công nghiệp khai mỏ bấy giờ mở ra
triển vọng trong việc tạo ra những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, ít nhất cũng tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam, nhưng cuối cùng do
chính sách lầm lẫn của các chúa Trịnh cho rằng việc khai mỏ chẳng có lợi gì, lại
phải đào bới nhiều hại đến mạch đất nên nhà chúa đuổi hết thợ mỏ người Trung
Quốc về nước, cấm tập trung nhiều thợ trong mỗi mỏ... Do vậy, nghề này đã bị
tàn lụi dần.
Thương nghiệp cũng
phát triển lên một bước đáng kể, cả nội thương và ngoại thương. Ở các làng hình
thành nhiều chợ mới họp theo phiên, xuất hiện một số chợ có quy mô cấp huyện
hay phủ nên có tên gọi là chợ huyện, chợ phủ. Theo Phan Huy Chú, ở Đường ngoài
có 8 chợ có quy mô lớn, nộp thuế cho nhà nước. Việc buôn bán rất phát đạt,
"những bọn hào phú và kẻ tiểu dân lại nhân cơ hội mà phần nhiều đua nhau
làm nghề dễ ăn, ít kẻ chuyên vụ nghề nông"..
Cùng thời, sự trao
đổi buôn bán với các thương nhân nước ngoài được tăng cường và mở rộng. Bên
cạnh các thương nhân Trung Quốc, Gia Va, Xiêm, Nhật Bản còn có thuyền buôn các
nước tư bản phương Tây. Tháng 3-1637, tàu Hà Lan Grôn cập bến ở Đường ngoài.
Thuyền trưởng là Hác xinh dâng chúa Trịnh hai khẩu đại bác, nhiều đạn dược làm
quà xin được buôn bán. Chúa Trịnh nhận lời và cho phép người Hà Lan được tự do
buôn bán với Đường ngoài. Năm 1643, tàu Hà Lan mang theo 10 vạn lạng bạc để nộp
thuế mới được chúa Trịnh cho tiếp tục buôn bán. Từ đó cho đến năm 1651, hàng
năm người Hà Lan đã bỏ 25.000 lạng bạc mua tơ của chúa Trịnh, 10.000 lạng bạc
mua tơ của các thế tử và của các đại thần. Tháng 6-1651, Công ty Đông ấn cử đại
diện đến Đường ngoài đặt lại quan hệ buôn bán. Năm 1699, thấy việc buôn bán
ngày càng ít lợi, giám đốc thương điếm Hà Lan ở Kẻ Chợ quyết định đóng cửa.
Những năm 1616-1617 người Anh cũng vào buôn bán. Năm 1672, tàu buôn Anh chở
thương đoàn Anh đến Đường ngoài xin được buôn bán. Chúa Trịnh đã cho phép người
Anh được mở thương điếm ở phố Hiến (Hưng Yên). Năm 1683, người Anh xây thương
điếm ở phía bắc Kẻ Chợ (Thăng Long). Hàng hoá thương nhân Anh chở vào là len
dạ, hàng xa xỉ, súng đạn, đại bác, v.v., mua tơ lụa và một số sản phẩm khác.
Năm 1697, thương điếm Anh đóng cửa ở Đường ngoài và đến năm 1720 thì các thuyền
buôn của người Anh chấm dứt hẳn việc buôn bán. Từ năm 1669, Công ty Đông Ấn của
người Pháp đến Đường ngoài xin được buôn bán và xin cho được mở thương điếm ở
Phố Hiến. Trong chuyến đi này, có nhiều giáo sĩ Pháp khoác áo thương nhân. Năm
1680, tàu buôn Pháp từ Ấn Độ đến Đường ngoài, thuyền trưởng Sáppơ biếu chúa
nhiều lễ vật, bán hàng hoá với giá rẻ hơn thương nhân các nước khác nên được
nhà chúa đón tiếp niềm nở và được nhà nước tạo nhiều thuận lợi. Năm 1681, người
Pháp được mở thương điếm ở Phố Hiến. Từ cuối thế kỷ XVII, Công ty Đông Ấn của
Pháp ngừng hoạt động, nhưng các giáo sĩ Pháp thì lại hoạt động mạnh hơn.
Sự phát triển của
công thương nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị mới và làm hưng thịnh,
phồn vinh các trung tâm kinh tế hàng hoá cũ. Kẻ Chợ và Phố Hiến là hai đô thị
nổi tiếng bấy giờ ở Đường ngoài. Kẻ Chợ (hay Kinh Kỳ) là đất Thăng Long nổi
tiếng với 36 phố phường. Ngoài các phường, Kẻ Chợ còn có 8 chợ lớn: Cửa Đông,
Cửa Nam, Chợ Huyện, Đình Ngang, Bà Đá, Văn Cử, Bác Cử, Đống Mác (ông Nước). Một
thương nhân tên là X.Bêrơn mô tả Kẻ Chợ vào năm 1685 như sau: Thành phố Kẻ Chợ
có thể so với nhiều thị trấn ở châu Á nhưng lại đông dân hơn. Những ngày mồng
một, năm âm lịch là những ngày phiên chợ, nhân dân ở các làng lân cận kĩu kịt
gánh hàng hoá đến, đông đúc vô cùng. Các con đường rộng bấy giờ đều trở nên
chật chội đến nỗi chen qua đám đông 100 bước trong khoảng nửa tiếng đồng hồ là
một điều sung sướng. Tất cả hàng hoá trong thành phố, mỗi thứ bán ở một phố
riêng và các chợ đó còn chia ra làm nhiều khu là nơi mà chỉ người trong khu mới
được phép mở cửa hàng, chẳng khác gì các hội, nghiệp đoàn trong các thành phố
của châu âu. Kẻ Chợ là một thành phố vừa buôn bán vừa sản xuất hàng thủ công
nghiệp, là trung tâm trao đổi hàng hoá ở Đường ngoài và buôn bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài.
Phố Hiến cũng là
một thành thị sầm uất của Đường ngoài thời bấy giờ. Nhiều thương nhân các nước
Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp đều có mặt và buôn bán ở Phố Hiến.
Ở Đường trong có
Hội An là thành phố cảng lớn nhất, từ thế kỷ XVI đã có thương nhân nước ngoài
đến buôn bán, ngoài ra còn có Thanh Hà ở tả ngạn Huế.
Về ngoại thương, ở
Đường trong cũng có bước phát triển mạnh từ thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII.
Nhiều lái buôn nước ngoài đến buôn bán. Thuyền buôn Trung Quốc thường ra vào
Hội An (Quảng Nam ),
Thanh Hà (Thuận Hoá). Đầu thế kỷ XVII, các thuyền buôn Trung Quốc thường đến
buôn bán ở sông Thu Bồn. Hội An từ một chợ địa phương đã phát triển thành
thương cảng nổi tiếng Đường trong. Giáo sĩ Cristôphơ Bôri (Cristoforo Borrỉ)
đến Đường trong năm 1618 đã mô tả Hội An "là thành phố rất lớn, mà người ta
có thể nói là có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của người Nhật
Bản. Mỗi thành phố có phố xá, quan cai trị riêng". Đến cuối thế kỷ XVII,
Hoa kiều ở Hội An chiếm địa vị thương mại quan trọng nhất. Theo Pie Poavơrơ
(Pierre Poivre) thì ở Hội An vào năm 1748 có tới 6000 người Hoa đều là những
nhà buôn lớn. Người Nhật đến buôn bán ở Đường trong khá sớm. Trong khoảng năm
1604-1616 có tới 42 tàu buôn của Nhật đã đến Đường trong. Cũng đã có thời,
người Nhật chiếm được ưu thế thương mại ở Hội An.
Đầu thế kỷ XVI đã
có những người Bồ Đào Nha đặt chân đến Hội An. Việc buôn bán giữa các thương
nhân Bồ Đào Nha với Đường trong vẫn tiếp tục ở thế kỷ XVII. Cùng thời gian này,
thuyền buôn của người Hà Lan, người Anh, Pháp cũng ra vào buôn bán ở đây. Năm
1651, chúa Nguyễn ký hiệp ước thương mại với người Hà Lan, cho phép các tàu
buôn Hà Lan được ra vào buôn bán ở các hải cảng, nhưng chẳng được bao lâu, đến
năm 1654 thương điếm của Hà Lan ở Hội An đóng cửa. Từ đó thỉnh thoảng tàu buôn
Hà Lan mới qua lại Đường trong. Từ năm 1613, tàu buôn của người Anh đã đến
Đường trong, cập bến cảng Hội An và đến năm 1695 người Anh đề nghị với chúa
Nguyễn cho lập thương điếm, nhưng việc buôn bán của người Anh ở Đường trong
nhanh chóng kết thúc do hàng hoá bị ứ đọng, ít lợi nhuận. Năm 1702, bọn thực
dân Anh trắng trợn xâm chiếm đảo Côn Lôn, chúng xây pháo đài bảo vệ, nhưng đến
cuối năm 1703 nhân dân trên đảo nổi dậy phối hợp với quân đội của chúa Nguyễn
đánh đuổi được quân Anh. Cuối thế kỷ XVII, Công ty Đông Ấn của Pháp có ý đồ xâm
chiếm đảo Côn Lôn. Năm 1688, người Pháp đã thành lập một cửa hiệu ở đảo này do
Vê rê (Vérret) phụ trách, chính Vê rê đã đề nghị với Chính phủ Pháp chiếm lấy
đảo. Năm 1748, Công ty Đông Ấn của Pháp cử Đuy mông (Dumont )
đến điều tra tình hình Đường trong và đề nghị về Pháp chiếm cù lao Chàm (trước
cửa biển Hội An). Các tàu buôn của người Pháp không buôn bán gì mấy, chỉ thường
qua lại để điều tra tình hình phục vụ cho âm mưu xâm lược nước ta của Chính phủ
Pháp.
Nhìn chung, quan hệ
ngoại thương giữa Đường trong với các nước phương Tây cũng giống như ở Đường
ngoài, chỉ được phát triển khá mạnh mẽ ở thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, sau
đó thuyền buôn các nước thưa thớt dần và chấm dứt hẳn.
2. Tình hình văn
hoá, giáo dục, khoa học, nghệ thuật
2.1 Các đạo giáo
- Nho giáo
Trong các thế kỷ
XVI-XVII-XVIII, Nho giáo vẫn được nhà nước phong kiến bảo vệ, duy trì để làm
nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế của chính quyền, làm kỷ cương của
xã hội. Tuy vậy, Nho giáo thời kỳ này bước vào thời kỳ suy đốn dần, không còn
được độc tôn như trước. Thực trạng này được biểu hiện ở lĩnh vực giáo dục, thi
cử. Các chính quyền phong kiến vẫn duy trì và mở rộng chế độ giáo dục, thi cử
làm pương tiện đào tạo quan lại, đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy ngày một đông
đảo, nhưng không còn được nghiêm túc như trước. Lối học từ chương, phù phiếm
vẫn duy trì không còn thích hợp. Những nguyên tắc đạo đức và lễ giáo phong kiến
chỉ còn là những hình thức suông. Nội dung học tập thi cử nông cạn, khuôn sáo,
không còn tính sáng tạo. Nhà sử học Lê Quý Đôn đã thừa nhận "các bậc tiền
bối đã soạn thành bài, lời lẽ cổ nhã, bọn hậu sinh đua nhau làm theo, khi vào
trường chỉ xén bớt những chỗ quá dài dòng đi mà thôi".
Đó là chưa nói tới
một hiện tượng khá phổ biến ở cả Đường trong và Đường ngoài là nhà nước phong
kiến đã bán quan tước. Những người không có học nhưng có tiền thì dùng tiền mua
chức tước. Trong thi cử, nhiều vụ hối lộ và ăn hối lộ đã diễn ra trắng trợn.
Thuyết "chính danh định phận", một nội dung cơ bản của Nho giáo nhằm
bảo vệ chế độ đẳng cấp và tôn ty trật tự phong kiến, mất dần phép màu nhiệm.
Đạo lý đảo điên. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá và sự tấn công
của đồng tiền vào thành trì lễ giáo phong kiến đã làm cho ý thức hệ Nho giáo bị
rạn nứt dần. Triết lý "chính danh định phận" của đạo Nho đã phải lùi
bước trước nhân sinh quan đồng tiền là trên hết, đè bẹp tất cả.
- Phật giáo
Trong khi Nho giáo
bước vào thời kỳ suy thoái dần thì Phật giáo lại được phục hưng. Các vua, chúa,
quý tộc, quan lại cả hai Đường (ngoài và trong) đua nhau tôn thờ đạo Phật, bỏ
nhiều tiền của để trùng tu chùa cũ, xây cất nhiều chùa, tháp mới. Các chùa Tây
Phương, Phúc Long, Thiền Tông, Độc Tông, Sùng Nghiêm, Quỳnh Lâm, Hồ Thiên,
Hương Hải, v.v., (ở Đường ngoài) và các chùa Thiên Mụ, Hoà Vang, Mỹ An, Thuận
Trạch, Kính Thiên, Hà Trung, Quốc ân, v.v., (ở Đường trong) đều được sửa chữa
hay xây dựng trong thời kỳ này. Đạo Phật lại được xã hội tôn sùng và phổ biến
hơn thời Lê sơ.
- Đạo giáo
Đạo giáo cũng có
bước phát triển, được vua, chúa tôn trọng. Việc tu tiên đắc đạo, luyện đan khá
thịnh hành ở Đường ngoài.Các chúa Trịnh cho trùng tu quán Trấn Võ ở Hà Nội và
cho đúc pho tượng đồng Thánh Trấn Võ cao 3,2m, nặng 6000 cân đồng, sau đó chúa
Trịnh lại cho đúc tượng Trấn Võ ở quán Trấn Võ (thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội)
cao ba thước. Một số thân vương, quan lại, quý tộc cũng cúng tiền của giúp việc
xây dựng.. Ở Đường trong, chúa Nguyễn Phúc Chu hay tin vào lời nói của các
thuật sĩ Nguyễn Hữu Thừa, Đặng Văn Minh.
- Thiên Chúa giáo
Từ thế kỷ XVI, đạo
Thiên Chúa đã du nhập vào nước ta. Đạo Thiên Chúa ra đời từ đầu công nguyên
trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ của Đế quốc La Mã, rồi được truyền bá rộng
rãi ở các nước châu Âu từ thời phong kiến. Từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ theo
thuyền buôn phương Tây bắt đầu đến truyền đạo ở nước ta. Đến thời Lê Trang
Tông, vào năm 1533, giáo sĩ Pháp đã vào truyền giáo ở vùng ven biển Nam
Định (các làng Quần Anh, Ninh Cường, Trà Lũ). Từ thế kỷ XVII trở về sau, các
giáo sĩ phương Tây mới đẩy mạnh hoạt động truyền giáo kết hợp với hoạt động
điều tra tình hình nước ta, chuẩn bị cho công cuộc xâm lược vũ trang của các
nước tư bản phương Tây. Năm 1615, một phái đoàn của Dòng Tên đã đến Đà Nẵng lập
một nhà thờ Thiên Chúa giáo, sau đó lại đến Hội An. Trong khoảng từ năm 1615
đến năm 1625, Dòng Tên đã phái đến Đường trong 21 giáo sĩ thầy cả (là người Bồ
Đào Nha, Pháp, Ý, Nhật). Số người theo đạo ở Đường trong đến năm 1639 đã có tới
15.000 người, nhiều nhà thờ giảng đạo được dựng nên ở Đà Nẵng, Hội An, Nước
Mặn, Quảng Nam. Từ đó, nhà chúa bắt đầu thi hành chính sách cấm đạo, trục xuất
những người truyền giáo ngoại quốc, xử tử một số người theo đạo không chịu bỏ
đạo. Kể từ khi các giáo sĩ Dòng Tên thành lập đoàn truyền giáo ở Đường trong
(1615) thì hoạt động truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây ngày càng được đẩy
mạnh và mở rộng, mặc dù nó bị chính quyền cấm đoán.
Sự tiến triển của
việc truyền giáo ở Đường trong đã khuyến khích các giáo sĩ Dòng Tên mở rộng
hoạt động ra ngoài Bắc. Năm 1627, một phái đoàn truyền giáo ở Đường ngoài được
thành lập do giáo sĩ người Pháp Alếchxăng đơ Rốt (Alexandre de Rhodes) cầm đầu.
Đến năm 1639, số giáo dân ở Đường ngoài lên tới 250.000 người. Từ năm 1668, khi
hội truyền giáo nước ngoài ở Pháp thành lập thì hoạt động của các giáo sĩ Pháp
ở Việt Nam càng ráo riết và nắm bá quyền truyền đạo ở cả hai Đường, không những
thế nó còn mở rộng đến các nước quanh vùng.
Sau nhiều năm hoạt
động ở Việt Nam , Alếchxăng
đơ Rốt nắm khá chắc nội tình Việt Nam , ông ta đã đề nghị Chính phủ
Pháp chiếm lấy nước ta. Bởi lẽ "khi đã chiếm được vị trí này thì các
thương gia châu Âu đã tìm được một nguồn tài nguyên và lợi nhuận dồi dào".
Đề nghị của ông ta được giáo hội Pháp và bọn quý tộc ủng hộ nhưng chưa được
thực hiện vì điều kiện của Pháp bấy giờ chưa cho phép xâm lược vũ trang Việt Nam . Sau
thế kỷ XVIII, bất chấp chính sách cấm đạo của nhà cầm quyền của hai miền, các
giáo sĩ vẫn lén lút hoạt động, mặc dù đã có không ít giáo sĩ bị cạo trán thích
chữ vào mặt (học Hoa lang đạo), bị chém đầu, bị tù đày, bị trục xuất. Thế kỷ
XVIII cũng là thời kỳ Chính phủ Pháp đẩy mạnh việc điều tra dò xét tình hình
nước ta. Sự truyền bá của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam gắn liền với sự bành trướng và
xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Hoạt động của giáo sĩ là nhằm chuẩn
bị và mở đường cho sự xâm nhập và xâm lợc của các nước phương Tây, đặc biệt của
tư bản Pháp. Trong quá trình phát triển của dân tộc ta, tiếng Việt ngày càng
trở nên phong phú và trong sáng. Trên cơ sở đó, từ thế kỷ XVII, các giáo sĩ
phương Tây vào truyền đạo ở Việt Nam đã dùng chữ cái latinh để ghi
âm tiếng Việt. Từ những lối ghi âm đầu tiên đó, họ dần dần chỉnh lý thành một
hệ thống ký hiệu ghi âm để tiện cho việc học tiếng Việt và biên soạn các sách
giáo lý bằng tiếng Việt. Cũng từ đó, tiếng Việt được latinh hoá và dẫn đến sự
ra đời của tiếng Việt. Năm 1621, hai giáo sĩ Pixia (người Ý) và Bôri (người Bồ
Đào Nha) đã cho ra một cuốn sách kinh nghĩa bằng Nam ngữ. Sau đó, hai giáo sĩ người
Bồ Đào Nha (Gaspar de Amaral và Antoine de Barbosa) đã soạn ra quyển tự vị Việt
Nam - Bồ Đào Nha và tự vị Bồ Đào Nha - Việt Nam. Alếchxăngđơ Rốt đã dựa vào đấy
để soạn ra quyển tự vị Việt Nam
- Latinh - Bồ Đào Nha. Và ông cũng là người đầu tiên dùng chữ quốc ngữ để viết
sách cho các giáo sĩ đọc. Mãi đến thế kỷ XIX, trải qua một thời gian sử dụng,
sửa chữa, chữ quốc ngữ mới có được hình thức như ngày nay.
2.2 Giáo dục, thi
cử
Chế độ học tập và
thi cử ở Đường ngoài cũng như Đường trong thời Lê - Trịnh, Nguyễn vẫn thực hiện
giống như thể lệ đã định từ thời Hồng Đức.
Ở Đường ngoài, theo
quy định cứ ba năm mở một kỳ thi, năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội. Thi
gồm có bốn trường (trường đầu tiên phải làm một bài kinh nghĩa; trường nhì làm
bài chế, chiếu; trường thứ ba làm một bài thơ, một bài phú; trường thứ tư làm
một bài văn sách. Truờng đầu phải làm theo lối văn bát cô). Nội dung đề thi hỏi
về Ngũ Kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Thiếu vi thông giám đề cương, Ngốc trai
tứ đạo, Trường sách Nguyên lưu chí luận. Về sau ở lần thi Đình (tiến sĩ) còn
hỏi thêm nội dung hai bộ Chu lễ quảng nghĩa và
Đại học diễn nghĩa. Nội dung thi ở kỳ thi Hương và Hội giống nhau, chỉ khác
nhau ở chỗ đề thi Hương dễ hơn, ngắn hơn, lối văn quy định giản tiện hơn. Ví
như bài phú ở thi Hương thì dùng thể cách Lý Bạch, đối chính song quan, cứ 4
vần bằng, 4 vần trắc xen nhau theo thể chế đời Tống (Trung Quốc), còn ở thi Hội
thì phú phải dùng thể luật tám vần có đôi cách cú.
Thời Lê Trung Hưng
ở Đường ngoài tổ chức tất cả được 80 khoa thi, tuyển chọn được 858 tiến sĩ. Nếu
cộng cả các kỳ thi ở triều Mạc thì có tất cả 102 kỳ thi và lấy đỗ được 1243
tiến sĩ.
Ở Đường trong, chế
độ học tập thi cử cũng được đẩy mạnh để phục vụ cho nhu cầu củng cố bộ máy
thống trị. Khoa thi đầu tiên của chúa Nguyễn là vào năm 1660 thời Nguyễn Phúc
Tần, lấy đỗ 20 người. Năm 1674, cùng với khoa thi chính đồ, hoa văn, mở thêm kỳ
thi thám phỏng. Liên tục các năm 1679, 1695 đều mở các kỳ thi. Năm 1768, Nguyễn
Phúc Thuần mở khoa thi Hương đầu tiên. Theo lệ thường ở Thuận Quảng, chúa
Nguyễn cứ năm năm tổ chức một kỳ thi gọi là "xuân thiên quận thí", cứ
chín năm một lần học trò các phủ huyện tập trung về Phú Xuân thi trong ba ngày,
ngày thứ nhất làm ba bài văn tứ lục; ngày thứ hai làm một bài thơ, một bài phú;
ngày thứ ba làm một bài sách vần. Những người đỗ chia làm ba hạng, hạng nhất là
Hương cống được bổ làm tri phủ, tri huyện; hạng nhì là Sinh đồ bổ làm huấn đạo;
hạng ba bổ lễ sinh hoặc cho nhiêu học suốt đời. Chúa Nguyễn lại cho thi một bài
thơ để định thứ bậc cao cấp để bổ dụng, gọi là thi Đình.
Nhìn chung, thời
bấy giờ việc thi cử ở Đường trong không phát triển bằng Đường ngoài và việc thi
cử có phần đơn giản và dễ dãi hơn vì nhu cầu xây dựng chính quyền mới cần nhiều
người có văn học. Điều dễ thấy là dưới thời các chúa Nguyễn chưa tổ chức một
cách chính quy các kỳ thi Hội, thi Đình nào như ở Đường ngoài.
2.3 Văn học, nghệ
thuật
Trong thế kỷ
XVII-XVIII sự suy đồi của Nho giáo và sự thay đổi của hoàn cảnh đã góp phần làm
cho văn học chữ Hán không còn thịnh đạt như thời Lê sơ, trở nên khô khăn cằn
cỗi và phù phiếm. Trong lúc đó văn học chữ Nôm, đặc biệt văn học dân gian phát
triển rất mạnh, hình thành cả một kho tàng văn học dân gian phong phú. Những
tri thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm ứng xử, v.v., được đúc kết
dưới dạng ca dao, tục ngữ. Những suy tư của nhân dân lao động về đời sống chính
trị, xã hội, về tình yêu nam nữ, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, v.v., được thi
vị hoá đã làm phong phú cuộc sống tinh thần của con người, đồng thời thể hiện
khát vọng được sống tự do, hoà bình, được giải phóng khỏi bất công xã hội đã là
nội dung tư tưởng, tình cảm chủ đạo của dòng văn học bình dân thời bấy giờ.
Văn thơ Nôm phát
triển mạnh hơn trước, chiếm một vị trí quan trọng trên văn đàn. Nhiều nhà thơ
nôm và truyện Nôm dài xuất hiện. Một nhà thơ Nôm nổi tiếng bấy giờ là Đào Duy
Từ với các bài văn Nôm Ngọa Long Cương, Tư dung vãn và một bài thơ Nôm - Hán.
Ngọa Long Cương đã
thể hiện bản lĩnh và chí khí của nhiều sĩ phu đương thời muốn đem tài năng giúp
đời trị nước. Bên cạnh một số bài thơ Nôm, truyện Nôm có tên tác giả, còn nhiều
truyện Nôm dài khuyết danh có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao như các truyện
Vương Tường, Tô công phụng sứ, Bạch viên tôn các, Trê cóc, Trinh thử, v.v.. Sự
xuất hiện ngày càng nhiều truyện Nôm dài đánh dấu bước phát triển của nền văn
học dân tộc. Các truyện nôm phần nhiều viết theo thể lục bát, cũng có truyện
viết theo thể thất ngôn bát cú chịu ảnh hưởng đậm nét của văn học dân gian.
Trong một số truyện, nhiều thành ngữ, ca dao, tục ngữ được vận dụng khéo léo,
nhuần nhuyễn. Một tác phẩm chữ Nôm có giá trị lớn là Thiên nam ngữ lục gồm có
8000 câu thơ lục bát bằng chữ Nôm và 31 bài thơ chữ Hán có tác dụng giáo dục
tinh thần tự cường dân tộc.
Về phương diện nghệ
thuật, thời kỳ lịch sử này thể hiện một bước phát triển mới mang đậm đà bản sắc
dân tộc. Các hình thức âm nhạc sân khấu đã đi vào đời sống của nhân dân lao
động, trở thành hình thức sinh hoạt tinh thần phong phú của nhân dân ta. Hàng
loạt nhạc cụ như đàn tỳ bà, tranh, nguyệt, thập lục, nhị, sáo, tiêu, phách,
trống cơm, đàn bầu, trống da, v.v., nhiều làn điệu quan họ, hát ví, hát chèo,
cải lương, hò mái đẩy, hát ả đào, lý ngựa ô, hát giậm, tuồng, múa rối... được
sử dụng rộng rãi ở các địa phương. Nét đặc biệt là nếu như chèo thịnh hành ở
Đường ngoài thì ở Đường trong tuồng lại phát triển hơn. Nhiều nhà nghiên cứu sử
học, văn học, nghệ thuật cho rằng Đào Duy Từ là người đầu tiên khai sinh ra
ngành tuồng ở Đường trong. Ông là tác giả của nhiều vở tuồng trong đó có vở Sơn
Hậu và các điệu múa Hoa Đăng, Nữ tướng xuất quân. Nhiều công trình kiến trúc
điêu khắc như đình, chùa, tượng phật, bia đá, lăng tẩm còn lại ngày nay thể
hiện bước phát triển của nghệ thuật thời bấy giờ như chùa Tây Phương (Hà Tây),
chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), tháp Báo Nghiêm ở chùa Bút Tháp, chùa Vạn Phúc (Bắc
Ninh), chùa Hương Tích (Hà Tây), chùa Thiên Mụ, Quế Ân, Bảo Quốc (Thừa Thiên -
Huê), v.v.. Nổi tiếng về điêu khắc là pho tượng Quan âm nghìn tay nghìn mắt và
tượng Tây thiên đông độ Việt Nam lịch đại tổ thờ ở chùa Ninh Phúc, được tạc vào
khoảng cuối thế kỷ XVII hết sức tinh vi, thể hiện rõ nét tinh thần và ý nghĩa
của bức tượng mà tác giả muốn biểu đạt. Các trượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương,
tượng 18 La hán ở chùa Vạn Phúc, chùa Đại Bi (Hà Tây) là những công trình nghệ
thuật điêu khắc nổi tiếng. Đó là những di sản văn hoá, lịch sử quý giá thể hiện
sự lao động sáng tạo của nhân dân đương thời. Cũng cần phải thấy rằng qua các
công trình điêu khắc thời bấy giờ người ta cũng đã thấy toát lên tính chất dân
gian và tính dân tộc hết sức đậm đà phong phú. Trên những phù điêu gỗ của đình
và chùa Thổ Hà (Bắc Ninh), Thổ Tang (Vĩnh Yên), đình Chu Quyến (Hà Tây), đình
Cam Đà (Hà Tây), v.v., đã mô tả khá sinh động những cảnh lao động sản xuất như
đi cày, bắt cá, đi săn; những cảnh vui chơi như nhảy múa, đánh vật, bơi chải;
cảnh nô đùa giữa nam và nữ; cảnh đánh ghen. Những phù điêu đó chẳng những đưa
nghệ thuật điêu khắc lên một trình độ mới mà còn chứng tỏ tính lạc quan, chiến
đấu và sáng tạo của nhân dân ta.
Trên lĩnh vực sử
học cũng đạt được nhiều thành tựu, để lại cho chúng ta ngày nay nhiều tác phẩm
có giá trị. Về chính sử có bộ Đại Việt sử ký toàn thư được hoàn thành và xuất
bản vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Bộ này gồm 24 quyển chép từ kỷ Hồng Bàng
đến thời Lê Gia Tông (1633-1675). Đây là một công trình lịch sử đồ sộ do nhiều
nhà sử học của nước ta qua nhiều đời biên soạn, từ Lê Văn Hưu đời Trần là người
khởi đầu biên soạn về lịch sử Việt Nam trong thời gian từ năm 207 trước Công
nguyên đến năm 1225, qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh thời Lê sơ, đến
Phạm Công Trứ, Lê Hy và nhiều nhà sử học khác thời Lê Trung Hưng thì hoàn
thành.
Đại Việt sử ký toàn
thư đã thu thập và trình bày một cách có hệ thống theo lối biên niên những tư
liệu về lịch sử Việt Nam trong một thời kỳ dài từ buổi đầu dựng nước đến thế kỷ
XVIII, cung cấp một nguồn tư liệu gốc quan trọng không riêng cho sử học, mà cho
hầu hết các ngành khoa học xã hội nghiên cứu về lịch sử, đất nước, xã hội, văn
hoá, con người Việt Nam thời cổ đại và trung đại. Nó giữ vai trò như một hệ
thống sử liệu gốc cơ bản và xưa nhất của lịch sử dân tộc trong phạm vi thời
gian lịch sử được nó ghi chép. Nét nổi bật trong bộ sử đồ sộ này là ở chỗ nó
thể hiện rất rõ nét tinh thần dân tộc, ý thức độc lập tự chủ về lãnh thổ, cương
vực thống nhất, thể hiện quan điểm đúng đắn về nguồn gốc giống nòi, niềm tự hào
chính đáng về quá khứ vẻ vang của dân tộc. Đương nhiên, các bộ sử đương thời
không thoát khỏi quan điểm phong kiến, Nho giáo đang thống trị thời bấy giờ.
Triều
đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung
Biên niên các sự
kiện thời Tây Sơn:
- 1771: Anh em Tây
Sơn nổi dậy
- 1776: Nguyễn Nhạc
xưng là Tây Sơn vương
- 1777: Nguyễn Huệ
tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định
- 1778: Nguyễn Nhạc
xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức
- 1780: Nguyễn Ánh
xưng vương tại Gia Định
- 1782: Nguyễn Ánh
bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc.
- 1783: Nguyễn Ánh
lánh nạn tại Côn Sơn.
- 1785: Nguyễn Huệ
đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút. Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.
- 1786: Nguyễn Huệ
lật đổ chúa Trịnh
- 1787: Nguyễn Ánh
trở về lại Long Xuyên
- 1788: Nguyễn Huệ
lên ngôi Hoàng đế
- 1789: Nguyễn Huệ
đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia Định
- 1792: Vua Quang
Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất
- 1799: Nguyễn Ánh
chiếm thành Qui Nhơn
- 1801: Nguyễn Ánh
lấy được Phú Xuân
1. Sự thiết lập
Vương triều Tây Sơn
Tháng 3-1776,
Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, xây lại thành Đồ Bàn, phong cho
Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự
xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế,
phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều
đại Tây Sơn chính thức được thành lập, nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu
tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ
chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung
ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam
Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất
từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, trông
coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong
phạm vi là một viên tướng đồn trú ở trong thành và chia quân đóng giữ. một số
đồn luỹ, không đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế, chính trị, xã
hội nào tích cực của một chính quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông
Định Vương chỉ trong vòng hơn một năm (1786-1787). Năm 1787, Nguyễn ánh từ Xiêm
đem quân về đánh Long Xuyên. Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau
lại chạy về Quy Nhơn và bị bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9-1788 lại thuộc
về Nguyễn Ánh.
Trung ương Hoàng đế
Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng lợi, không còn ý chí quật khởi,
ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây
chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ, không lo đến hậu hoạ". Từ
năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công ra Bình Thuận, Bình Khang,
Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc bất lực phải nhờ quân cứu
viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các tướng sĩ của Quang Toàn giải
vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc
uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến đây kết thúc.
2. Triều đại Quang
Trung
Ngày 25 tháng 11
năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh xâm lược,
Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung. Phạm vi quản lý của triều đại
Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải
Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp cải
cách tiến bộ.
- Về kinh tế.
Quang Trung ban
"chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu tán trở về quê khôi phục
ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn tránh đều bị trừng phạt.
Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư
thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi.
Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục
được cảnh thái bình.
Đối với công thương
nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng
ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển nông nghiệp. Xuất phát từ nhận
thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của chính quyền mới, Quang Trung chủ
trương phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh,
độc lập, tự chủ trong đó có công thương nghiệp.
Chủ trương khuyến
khích phát triển công thương nghiệp của Quang Trung được thể hiện ở sắc lệnh
"khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân
dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng lớp nhân dân lao động phấn khởi
sản xuất.
Để thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Quang Trung cho đúc tiền đồng mới (Quang
Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với nước ngoài, Quang Trung chủ
trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh nuộc nhà Thanh phải mở cửa biên
giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ Khẩu (Cao Bằng), Hoa Sơn
(Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây,
Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với
Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương và ngoại thương) nước ta
thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Mô tả Thăng Long bấy giờ, nhà
nho Nguyễn Huy Lượng sống dưới thời Tây Sơn viết: "Lò Thạch khối khói tuôn
nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đom đóm nhen năm xã gây
lò", và "rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy nhen
buồm bươm bướm" (Phú Tụng Tây Hồ).
Nền ngoại thương
nước ta thời Quang Trung khác hẳn với ngoại thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúa
Nguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế và đời sống
của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá. Tư tưởng "thông thương"
tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu
thế phát triển của đất nước và thời đại, "mở cửa ải, thông thuơng buôn
bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".
- Về chính trị,
quốc phòng.
Sau khi đánh bại 30
vạn quân Thanh xâm lược (1789), Vương triều Quang Trung ra sức xây dựng một
chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thức quản lý đất nước trên một phạm vi
rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức
"Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức
không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo
sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa", nên trong công cuộc xây dựng
chính quyền mới, Quang Trung rất chú trọng "Cầu hiền tài". Đối với
những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí
tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử
dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài
năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, v.v., là những học giả
tiêu biểu trong số nho sĩ này.
Để đáp ứng nhu cầu
xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức
"tiến cử", "cầu hiền tài" Quang Trung đã ban hành chính
sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở
rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần
thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần
theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi
lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học
lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều
bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.
Chủ trương phát
triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất nước trong công cuộc phục
hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ: "Dựng nước lấy học làm
đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị, việc
học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn... Trẫm
khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có
người thực tài để dùng cho quốc gia". Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ
năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy
những người đỗ tú tài hạng ưu cho vào dạy trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy
ở trường phủ học. Quang Trung chủ trương từng bước đưa khoa cử thành một phương
thức đào tạo quan chức cho nhà nước phong kiến mới.
Trên cơ sở tăng
cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập trung mạnh, chính quyền đã
thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấy giờ đối với xã hội là tập
hợp được các lực lượng tích cực trong toàn đất nước, đẩy lùi được cuộc chiến tranh
xâm lược của ngoại bang, ổn định tình hình chính trị, xã hội, củng cố được nhà
nước quân chủ tập quyền, từng bước phục hưng, phát triển văn hoá, giáo dục và
kinh tế.
Quang Trung chủ
trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố quốc phòng. Quân đội chia làm 5
doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn có thêm một số quân hiệu khác
như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân đội được biên chế theo đạo,
cơ, đội. Nhà nước quy định cứ 3 suất đinh tuyển một lính. Năm 1790, làm sổ hộ
tịch để căn cứ vào đó tuyển binh.
Quân đội có các
binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí có nhiều loại, có
loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có súng trường, đại bác,
giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều loại, loại lớn chở được cả voi,
trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến 700 lính.
Với một lực lượng
quân đội mạnh, Quang Trung đã trấn áp được các thế lực phong kiến phản động,
bảo vệ được chính quyền mới và có cơ sở để thực hiện một chính sách đối ngoại
tích cực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và nâng cao
địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước ngoài.
- Về văn hoá giáo
dục.
Quang Trung lập
Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và
giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành
quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bên cạnh Nho giáo, Quang Trung vẫn chấp
nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ
thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải
làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia
dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo
tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng hoá của các triều đại phương Bắc
đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo dục của Quang Trung chứng tỏ ông
có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.
Những cải cách của
Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất
nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài để vươn lên
sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời, những chính sách cải cách đó
đã và sẽ tạo khả năng mở đường, phát triển của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, về mặt
thực hiện những chính sách cải cách của Quang Trung đã gặp nhiều trở ngại, thời
gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang
Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùng của dân tộc, đột ngột qua đời giữa lúc
những cải cách mới được bắt đầu thực hiện. Triều đại Quang Toản tiếp sau đó bất
lực, không còn tiếp tục thực hiện được những cải cách của Quang Trung và đã bị
Nguyễn Ánh lật đổ vào đầu năm 1802.
Triều
Tây Sơn (1778-1802) In
1. Thái Đức Hoàng
Đế (1778-1793)
Anh em Tây Sơn vốn
người họ Hồ, cháu hậu duệ của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (thế kỷ thứ 10). ông tổ
của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, khoảng nǎm 1653-1657 bị quân của chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về cho ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình
Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.
Ông Nguyễn Phi Phúc
lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Gia đình ông Phúc
làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả. Anh em Nguyễn Nhạc theo học
giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).
Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn tại
Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.
Lúc đó quyền thần
Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.
Hằng ngày anh em
Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng htời khích
lệ bởi câu sấm:
"Tây khởi
nghĩa, Bắc thu công" Nǎm Tân Mão - 1771, anh em
Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa với
khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn
Nguyễn Phúc Dương". Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân
phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất đông.
Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất - 1778, quân
Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng
Trong.
Nguyễn Nhạc lên
ngôi Hoàng dế lập nên Triều đại nhà Tây Sơn, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong
cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.
Nǎm 1777, chúa Nguyễn
Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn
Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu.
Nǎm 1784, Nguyễn Ánh
cầu viện vua Xiêm cho hai vạn quân thuỷ và 300 chiến thuyền sang xâm lược nước
ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông Rạch Gầm - Soài Mút (Định Tường).
Nǎm 1786, Hoàng đế
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra đánh thành Thuận Hoá của chúa Trịnh vào
tháng 5/1786. Trên đà thắng lợi, với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh",
ngày 25/6 Nguyễn Huệ tiến quân ra cố đô Thǎng Long. Nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không
kiềm chế được Nguyễn Huệ, vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.
Vua Lê Hiển Tông
nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón
vua Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra tận
ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.
Về đến kinh đô,
Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh. Nguyễn Nhạc khen:
- Chà, em vua Tây
Sơn làm rể vua nước Nam
"môn đương hộ đối" mối nhân duyên thật đẹp!
Sau khi từ Bắc Hà
trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi - 1787, Nguyễn
Nhạc chia vùng đất phía Nam
ra làm ba:
- Từ đèo Hải Vân
trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
- Đất Gia Định
thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.
- Nguyễn Nhạc đóng
đô ở Qui Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.
Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.
2. Hoàng đế Quang
Trung (1788-1792)
Hoàng đế Quang
Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu - 1752. Nguyễn Huệ
có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng và tinh anh.
Nguyễn Huệ là trụ
cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công lao to lớn, đập tan chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm Long nhương Tướng quân và được trao
quyền cầm quân đánh đông dẹp bắc, là vị tướng có tài hành quân chớp nhoáng,
đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.
Nguyễn Huệ đem quân
ra Bắc lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê.
Sau khi vua Lê Hiển
Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, nhà vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm
Nguyên suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với sự sắp xếp khéo léo của Nguyễn
Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7/1786, một
đêm mưa to gió lớn, kinh đô Thǎng Long ngập hàng thước
nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.
Công chúa Ngọc Hân
khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời
vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà
Lê cho rằng Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt
công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi
vua.
Ít lâu sau, Nguyễn
Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam .
Tháng 4/1788. Lê
Chiêu Thống đã bỏ kinh đô chạy ra ngoài, Bắc bình vương Nguyễn Huệ phải đem
quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn. ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà,
đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích ra đảm đương công
việc.
Sau khi đã lập Sùng
nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Cuối nǎm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh về
chiếm đóng kinh đô Thǎng Long.
Đại tư mã Ngô Vǎn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn
chờ lệnh.
Nghe tin cấp báo,
ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 nǎm Mậu Thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng
và để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế niên hiệu
Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 nǎm Mậu Thân (26/12/1788), đại
binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển
thêm hàng vạn trai tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10
vạn, với đội tượng binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức 5 đạo quân: tiền,
hậu, tả, hữu và trung quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến
trận, chưa qua thao luyện được đặt vào đạo trung quân do chính hoàng đế trực
tiếp chỉ huy.
Hoàng đế Quang
Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến,
quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh.
Ngay sau lễ duyệt
binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc Hà.
Ngày 20 tháng Chạp
nǎm Mậu Thân (15/1/1789), đại quân của Quang Trung
đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình.
Trước khi bước vào
chiến dịch, vua Quang Trung nói với quan quân rằng:
- Nay ta tới đây
thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày
nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước
ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để
binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa
chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm.
Đúng như dự kiến và
lời hứa hẹn của vị tổng chỉ huy, với tài dùng binh táo bạo, thần tốc, ngày 5
tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu - 1789, đội quân
bách chiến bách thắng của hoàng đế Quang
Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa
do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến vào giải phóng Thǎng Long.
Sau chiến thắng
Đống Đa, Nguyễn Huệ vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại
binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Theo phương lược
ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô
Thì Nhậm, nước ta đã bình thường được mối bang giao với nhà Thanh, buộc sứ
Thanh phải vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang
Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà
Thanh.
Nǎm 1792, sau khi gửi
thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa bắc quốc và
xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đô
đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Càn Long. Vua Càn Long đã chuẩn tấu gả
công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng quốc vương nước Nam và tỉnh
Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho quốc vương phò mã đóng đô.
Giữa lúc đoàn sứ bộ
đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì nhận tin sét đánh: vua
Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại. Vũ Vǎn Dũng đành ôm hận trở về nước.
Một buổi chiều đầu
thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa
gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu
não. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về
triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình
nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các
quần thần.
- Ta mở mang bờ
cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi
được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài
thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì
tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta
chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ
ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để
khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ
chôn đâu!
Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý - 1792 vào khoảng 11 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 41 tuổi. Biết bao dự kiến to lớn của
người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!
Nguyễn Quang Toản
lên nối ngôi vua cha.
3. Hoàng đế Cảnh
Thịnh (1793-1802)
Vua Quang Trung
mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi lên ngôi vua nǎm Quý Sửu - 1793, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.
Quang Toản lên ngôi
vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư giám quốc trông coi mọi việc trong
ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền nên
trong ngoài đều oán, đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.
Bọn cận thần gièm
pha rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là
thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Sau Trần Quang Diệu bị giết.
Nǎm Canh Thân - 1800, Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng
Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.
Nǎm Tân Dậu - 1801,
Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ không nổi, Phú Xuân bị chiếm,
Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng.
Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất - 1802, Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm Thǎng Long. Không chống đỡ
nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ bỏ
thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ hào đất Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa
về Thǎng Long.
Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản cùng toàn gia cũng như một số
tướng lĩnh Tây Sơn bị hành hình?.
Quang Toản lên ngôi
vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi
20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778-1802).
http://alo0781.com/forum/topic.asp?cat_id=15&FORUM_ID=34&TOPIC_ID=1299&Topic_Title=[Th%E1%BB%9Di+trung+%C4%91%E1%BA%A1i]+-++Vi%E1%BB%87t+Nam+t%E1%BB%AB+th%E1%BA%BF+k%E1%BB%B7+XVI+%C4%91%E1%BA%BFn+%C4%91%E1%BA%A7u+th%E1%BA%BF+k%E1%BB%B7+XVIII&Forum_Title=+
bài viết công phu, tiếc là có những chữ viết sai, đọc hơi... ức chế. Ví dụ: cung nhân - dung nhân; vua lợn - vừa lợn... Nhưng vẫn rất cảm ơn tác giả đã dày công biên soạn bài viết
Trả lờiXóa