Xứ Đàng Trong [1] được người Bồ gọi như vậy nhưng trong tiếng bản xứ là
Xứ này, về hướng Nam, giáp vĩ tuyến 11 [4], về hướng Bắc, xế về Đông Bắc, giáp xứ Đàng Ngoài, về hướng Đông, có biển Đông và về hướng Tây, xế về Tây Bắc, giáp nước Lào.
Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về ông cố của chúa đương thời [5] cai trị Đàng Trong, người đã chống lại chính vua nước Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cha Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô.
Xứ Đàng Trong trải dài hơn một trăm dặm theo bờ biển, ở vĩ tuyến 11, cho tới khoảng vĩ tuyến 17 [6], chỗ bắt đầu quốc gia của chúa Đàng Ngoài. Bề rộng không lớn lắm, chỉ chừng hai mươi dặm Ý, đất bằng, một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ Mọi ở [7], tên gọi này có nghĩa là man di. Mặc dầu họ là người Đàng Trong, nhưng họ không nhìn nhận chúa cũng không thần phục ngài. Họ đóng đô và chiếm giữ miền núi rất hiểm trở.
Xứ Đàng Trong chia thành năm tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai là Cacciam[8], nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia [9]. Thứ tư là Quingnim [10], người Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là Renran [11].
Chú thích
[1] Chúng ta đang ở thời kỳ Nam Bắc phân tranh, chúa Trịnh ở Bắc và chúa Nguyễn ở
[2] An
[3] Có thể gốc là Giao Chỉ. Thực ra chữ Cocincina được nhận để phân biệt với tỉnh
[4] Về ngành hàng hải, người Bồ và người Tây rất thành thạo. Người Hà Lan cũng đã giỏi về thuật đi biển và người ta đã bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với những vĩ tuyến, đường xích đạo. Vào thế kỷ 15, 16 trung tâm địa dư là ở Roma.
[5] Lúc ngày Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) làm chúa ở Đàng Trong tục gọi là chúa Sãi. Như vậy ông cố tức là Nguyễn Kim thân sinh của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng (1600-1613), tục gọi là chúa Tiên.
[6] Kỳ lạ thay, Hiệp định Genève đã coi vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam-Bắc (1954).
[7] Dãy núi Trường Sơn. Chữ “Mọi” đối với ta vẫn còn nghĩa hèn kém (ở đây chỉ dân tộc ít người)
[8] Quảng Nam
[9] Quảng Ngãi
[10] Quy Nhơn
[11] Theo bản đồ 1651: 1. Quảng Bình (Dinh Công); 2. Thuận Hóa (Dinh Cả); 3. Quảng
CHƯƠNG 2: VỀ KHÍ HẬU VÀ ĐẶC
TÍNH LÃNH THỔ ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở trên, xứ này ở vào giữa vĩ tuyến
11 và 17, do đó, nóng chứ không lạnh. Tuy vậy xứ này lại không nóng như An Độ,
mặc dầu cũng vĩ tuyến như nhau và thuộc về miền nhiệt đới như nhau. Lý do sự
khác biệt này là ở An Độ không phân rõ bốn mùa. Mùa hạ kéo dài tới chín tháng
liên tục. Trong thời gian đó, không thấy có một chút mây trên trời, ngày cũng
như đêm, thành thử không khí luôn luôn bị thiêu đốt bởi ánh nắng mặt trời. Ba
tháng còn lại được kể là mùa đông, không phải vì thiếu nóng, mà là vì mưa liên
tục, thường là cả ngày lẫn đêm trong mùa này. Nói theo kiểu bình thường thì mưa
liên tục như thế hẳn phải làm không khí mát dịu. Tuy nhiên, vì mưa vào tháng
năm, tháng sáu, tháng bảy, lúc mặt trời ở điểm cao nhất, ở tột đỉnh của An Độ
và lại không hề có ngọn gió nào khác ngoài những ngọn gió thật nóng, nên không
khí rất ngột ngạt, làm cho nhiệt độ khó chịu hơn là vào chính giữa mùa hạ vì
lúc này thường có gió nhẹ thổi từ biển vào đem khí mát cho nội địa. Nếu không
có sự an bài đặc biệt, thì không sao ở được trong những xứ sở này.
Ở Đàng Trong thì không thế bởi vì có đủ bốn
mùa trong năm, tuy không rõ ràng như ở Châu Au vốn có khí hậu ôn hòa hơn. Mùa
hạ gồm ba tháng sáu, bảy, và tám, cũng rất nóng vì ở vào miền nhiệt đới và mặt
trời trong những tháng đó cũng ở điểm cao nhất trên đầu chúng ta. Nhưng vào
tháng chín, mười và mười một thuộc mùa thu thì hết nóng và khí hậu dịu bởi có
mưa liên tục, nhất là ở miền núi Kẻ Mọi. Do đó nước lũ làm ngập khắp xứ, đổ ra
biển, như thể đất liền và biển chỉ còn là một. Cứ mười lăm hôm lại xảy ra một
trận lụt và mỗi lần kéo dài ba ngày. Ích lợi của nước lũ là không những nó làm
cho không khí mát mẻ, mà còn đem phù sa làm cho đất phì nhiêu và dồi dào về mọi
sự, nhất là về lúa là thức ăn tốt nhất trời ban và là lương thực chung cho khắp
xứ. Còn vào ba tháng mùa đông – tháng chạp, tháng giêng và tháng hai thì có gió
bắc thổi, đem mưa đủ lạnh để phân biệt mùa đông với các mùa khác trong năm. Sau
cùng vào các tháng ba, tư và năm, hiện rõ các hiệu quả của một mùa xuân thú vị,
tất cả đều xanh tươi và nở hoa.
Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở
chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này.
Trước hết mọi người ở đây đều mong nước lũ,
không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để cho đồng ruộng được mầu mỡ.
Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui mừng và thích thú: họ thăm
hỏi nhau, chúc mừng nhau, ôm nhau hò hét vui vẻ và nhắc đi nhắc lại “đã đến
lụt, đã đến lụt” [1]
có nghĩa là nước đã tới, nước đã tới rồi. Nói tóm lại là không ai là không bày
tỏ niềm vui, từ kẻ thế gia đến chúa cũng vậy.
Nhưng thường thì nước lũ tới bất thần, không
ai ngờ, ban chiều chưa ai nghĩ tới, nhưng sáng ra nước đã kéo vào tư bề, và
người ta bị nhốt trong nhà, tình trạng này diễn ra khắp xứ. Do đọ họ thường mất
hết gia súc vì không kịp đưa chúng chạy lên núi hay những nơi cao hơn.
Vào trường hợp này, có một luật kì lạ ở xứ
này là bò, dê, lợn và các vật khác bị chết đuối thì không còn thuộc về chủ,
nhưng đương nhiên thuộc về người thứ nhất vớt được. Đây cũng là một điều làm
cho người ta vui thích một cách lạ lùng: vừa có lụt, mọi người đều nhảy xuống
thuyền bơi đi tìm vớt gia súc chết đuối, để rồi làm thịt và dọn cỗ linh đình.
Còn trẻ con thì tuỳ theo tuổi, chúng để mắt
và vui thú rình trên cánh đồng lúa mênh mông đầy rẫy chuột lớn, chuột bé, vì
hang ngập nước nên chúng phải ngoi ra, bò lên cây để thoát, thành thử thật là
rất vui mắt khi được nhìn thấy những cảnh cây nặng trĩu những chuột thay vì lá
hay quả. Từng đám trẻ con trên các chiếc thuyền nhỏ của chúng tới rung cây làm
các con vật này rớt xuống nước và chết đuối. Trò đùa nghịch và giải trí của trẻ
con, nhưng thực ra có ích lợi lớn cho đồng ruộng vì thoát được những con vật
gây thiệt hại nặng cho những cánh đồng rộng lớn.
Cái lợi cuối cùng, không phải là nhỏ, đó là
người ta đều có thể sắm sửa cho đủ mọi thứ cần dùng. Vì trong ba ngày này, nước
lụt làm cho người ta có thể đi lại khắp nơi bằng thuyền một cách rất dễ dàng
đến độ không có gì mà không chuyển được từ nơi này qua nơi khác. Do đó, người
ta dành thời gian này để họp chợ, những phiên chợ có tiếng nhất trong xứ, số
người đến họp chợ trong dịp này đông hơn bất kỳ buổi họp chợ nào khác trong
năm. Cũng trong ba ngày này, người ta đi lấy cây để thổi nấu và dựng nhà. Họ chất
cây từ trên núi vào thuyền và dễ dàng bơi qua các nẻo, các ngõ và tới tận nhà
vốn được cất trên các hàng cột khá cao để cho nước ra vào tự do. Ai cũng leo
lên sàn cao nhất và phải khen họ vì không bao giờ lụt bén tới bởi họ đã lấy
kích thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực nước cao thấp, do đó họ
không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà họ.
Chú thích
[1]
Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, de Pina tới năm 1617 và Borri với Marquez tới
năm 1618. Cha De Pina rất thông thạo tiếng Việt và là thầy dạy De Rhodes sau
này
CHƯƠNG 3: ĐẤT ĐAI PHÌ NHIÊU
Người ta dễ dàng nhận thấy là nước lụt đã làm
cho đất đai ở xứ Đàng Trong phì nhiêu, như chúng tôi vừa nói. Tuy nhiên, tôi
thấy còn phải kể nhiều sự đặc biệt khác nữa.
Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu nên
mỗi năm có ba vụ lúa [1],
đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng
sung túc.
Quanh năm có rất nhiều và có đủ thứ trái cây
như ở An Độ, vì xứ Đàng Trong có cùng khí hậu như ở An. Nhưng đặc biệt là cam ở
Đàng Trong trái lớn hơn ở Châu Au to và rất ngọt. Vỏ rất dể bóc, mềm và ngon,
cam có thể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm như trái chanh [2]
ở Ý. Ở đây người ta cũng thấy một số trái khác người Bồ gọi là chuối, người
khác gọi là vả An Độ. Theo ý tôi thì không xác đáng vì ở An không có cây nào
được gọi là vả, và cây ở Đàng Trong không có gì giống cây vả của chúng ta, về
thân cây cũng như về trái. Về thân cây thì nó giống như cây chúng ta gọi là
“lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ” tuy cao lớn hơn, là rất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần
hai lá cũng đủ để có thể che một người từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả
người. Do đó mà có người muốn gọi cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy
lá của nó để che giấu sự trần truồng của mình [3].
Cây này trổ ngay trên ngọn một buồng gồm hai mươi, ba mươi hay bốn mươi trái
cột chặt với nhau, mỗi trái về hình thù, bề dài và độ lớn, đều giống trái chanh
thông thường ở Ý. Khi trái chưa hoàn toàn chín thì vỏ xanh và sau đó trở nên
vàng giống hệt như chanh. Không cần dùng dao để bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ
rất dễ dàng như bóc đâu mới hái. Mùi thì rất thơm, ruột vàng và khá cứng chắc
như một trái lê bergam chín muồi của ta, dễ tan trong miệng. Do đó không thể
nói là nó giống cây vả của chúng ta được, trừ vị thơm ngon và dịu ngọt. Cũng
còn một thứ trái khác thuộc loại này, người ta sấy và ngâm rượu [4].
Hàng năm, sau khi cây có trái, sẽ héo đi và một nhánh con trổ ở gốc để cho năm
sau. Ở Ý chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng thực ra không có gì giống về cây
cũng như về trái chuối này. Bây giờ chúng tôi nói tới cây (chúng ta gọi là cây
vả An Độ, nhưng không phải là cây người ta thấy ở những miền này).
Trái này có rất nhiều ở hầu hết các tỉnh An
Độ, nhưng ở Đàng Trong còn một thứ không thấy ở Trung Quốc cũng như ở khắp An
Độ. Trái nó to, như trái chanh lớn nhất ở Ý và to đến nỗi chỉ căn một trái cũng
đủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen và tròn, người ta nhai lẫn
với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt cho dạ dày.
Ở Đàng Trong cũng còn một loại trái cây nữa,
tôi không thấy có ở An Độ, người ta gọi là cam [5].
Về hình thù và chất vỏ, nó giống như lựu của ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng
phải dùng thìa để múc và có vị thơm và có màu gần giống trái sơn trà chín.
Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta,
nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
Họ không thiếu dưa, nhưng không ngon bằng dưa
của ta, nên phải ăn với đường hay mật. Dưa gang hay dưa nước, như nhiều người
gọi, rất to và rất tuyệt.
Có một trái gọi là mít. Trái này cũng có ở An
Độ, nhưng không ngon bằng trái ở Đàng Trong. Trái mọc ở trên một cây cao như
cây hồ đào và cây dẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn nhiều. Trái to như trái bí
ngô lớn ở Ý và chỉ cần một trái cũng đủ cho một người vác. Bề ngoài nó có hình
thù của một nón thông, nhưng ruột thì dịu và mềm. Bên trong thì đầy những múi
vàng có hột dẹp và tròn như đồng tiền ở Ý hay đồng “teston” (ở Pháp). Ở giữa
mỗi múi có hạt [6]
người ta bỏ đi không ăn. Có hai loại[7],
một loại người Bồ gọi là “giaca barca”, dóc hột, ruột cứng. Loại thứ hai không
dóc hột và ruột không cứng bằng, rất mềm và nát như keo. Mùi vị của cả hai loại
này rất ngon gọi là sầu riêng chúng tôi sẽ nói sau đây.
Trái “durion” (sầu riêng) là một trong những
trái ngon nhất hoàn cầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Bornéô và mấy đảo
xung quanh. Không có gì để nói giữa cây này và cây mít. Bên ngoài, trái này
cũng giống trái mít và trái thông của ta, cả về kích thước cũng như độ cứng của
vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất trắng, còn mùi vị thì giống như món
đông hạnh nhân của người Ý [8].
Thịt và nước ngọt của nó được chứa trong mười hay mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn
có nhiều múi thịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt dẻ lớn nhất của ta. Khi mở
ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành thối, nhưng ở trong thì không có mùi và
lại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra trước mắt tôi. Số là có
một người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới Malacca thưởng thức trái này và không
báo trước. Ông mở một trái ngay trước mặt vị giáo chủ. Mùi khá nặng và khó chịu
xông ra làm cho giáo chủ ghê sợ và nản không dùng được. Nhưng lúc ngồi vào bàn
tiệc, trong các món ăn có một món chỉ toàn là trái cây có mùi vị thơm giống món
đông hạnh nhân làm cho giáo chủ dễ lầm cũng như bất cứ ai chưa được biết trước.
Ông vừa đưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm thì thấy rất ngon làm ông bỡ ngỡ
và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông hạnh nhân ngon đến thế. Chủ nhà
mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào ngoài Thiên Chúa cao cả đã cho xứ
này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà lúc đầu ông đã ghê sợ. Nghe tới đây vị
giáo chủ sửng sốt và hết lời ca ngợi, ông dùng rất ngon miệng. Thế nhưng trái
này ngon đến độ ngay ở Malacca là nơi sản sinh, nhiều khi giá lên tới một đồng
“êcu” một trái.
Xứ Đàng Trong còn có một loại trái khác người
Bồ gọi là dứa. Và tôi biết trái này cũng rất thông thường ở khắp An Độ và ở
Brésil. Tuy nhiên, vì tôi thấy người ta tả không đúng theo ý tôi lắm, nên tôi
nghĩ là phải nói một chút. Trái này không trổ trên cây, cũng không do hạt
giống, nhưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và lá hoàn toàn giống như cây
các đông và atisô của ta. Trái hình tròn dài bằng chín ngón tay [9]
và to như thể lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong thì dày như ruột cải củ,
nhưng vỏ thì cứng hơn và sờm như vây cá. Khi chín bên trong vàng và sau khi lấy
dao gọt vỏ thì ăn sống. Trái có vị chua dịu và khi chín thì thơm ngon như trái
lê “bergam”.
Ở xứ Đàng Trong còn một trái khác đặc biệt
của xứ này người Bồ gọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc thẳng như cây dừa, rỗng ở
trong và chỉ đâm lá ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở giữa các tàu lá, nảy các
ngành nhỏ có trái. Trái có hình thù và kích thước của trái hồ đào [10],
sắc xanh cũng như vỏ hồ đào, còn ruột thì trắng và cứng như trái dẻ [11]
chẳng có mùi vị gì hết. Trái này không ăn một mình, nhưng ăn với lá trầu không,
thứ cây rất thông dụng ở khắp An Độ, lá như lá thường xuân [12] ở Châu Au và thân bám vào cây chống như
giống cây thường xuân. Người ta hái lá cắt thành từng miếng nhỏ và trong mỗi
miếng để một miếng cau, như vậy mỗi trái có thể làm thành bốn hay năm miếng.
Người ta còn thêm vôi với cau. Vôi ở xứ này không làm bằng đá như ở Châu Au,
nhưng bằng vỏ sò hến [13]. Vì trong nhà thường có những người
chuyên lo việc bếp núc, chợ búa và các việc khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều
có một người không có việc gì khác hơn là việc têm trầu, những người dùng vào
việc này thường là đàn bà, nên gọi là các bà têm trầu. Những miếng trầu đã têm
sẵn thì để vào trong hộp và suốt ngày người ta nhai trầu, không những khi ở
trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc nói, ở mọi nơi, mọi lúc. Và
sau khi đã nhai trầu lâu và nghiền trong miệng người ta không nuốt mà nhả ra,
chỉ giữ hương vị và phẩm chất tăng thêm sức mạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái
này được têm thành miếng rất thông dụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem
theo một túi đầy trầu và mời người mình tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng
cho ngay vào miệng. Trước khi người khách từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm
trầu của nhà mình đem ra một túi để mời người khách đến thăm mình, như để đáp
lại sự lịch thiệp mình đã nhận được. Do đó vì cần phải có sẵn coi trầu cau và
có liên tục, nên cau cũng là một nguồn lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì cũng
như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng ôliu. Họ cũng hút thuốc lá, nhưng thuốc
lá không thông dụng bằng trầu cau. Cũng có đầy đủ các loại mướp và có cả mía
nữa. Các trái cây ở Châu Au thì cho tới nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong.
Tôi tin rằng nho và vả sẽ mọc được ở đây, những thứ rau như rau diếp, rau diếp
xoắn, sú và những thứ rau tương tự hiện có ở Đàng Trong như ở khắp An Độ, nhưng
chúng chỉ ra lá mà không có hạt và nếu muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Au
qua.
Thịt thà thì rất nhiều ở đây vì có vô số súc
vật bốn chân nuôi trong nhà như bò, dê, lợn, trâu và các giống tương tự, và thú
rừng như hươu nai to lớn hơn ở Châu Au, lợn rừng và mấy loại khác. Gia cầm như
gà nhà và gà rừng rất nhiều ở thôn quê, chim gáy, chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu,
thịt thơm ngon và sau cùng là mấy thứ khác ở Châu Au không có.
Ngành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở
đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã qua nhiều đại dương, đã đi
nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh được với xứ Đàng
Trong. Và như tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển, nên có rất nhiều thuyền
đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ, từng đoàn người chuyển cá từ
biển tới tận miền núi, có thể nói trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì
ít ra họ dùng tới hai mươi tiếng để làm việc này. Thực ra người Đàng Trong ăn
cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước
“sốt” [14] gọi là balaciam [15] làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão
ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của
ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều
nơi ở Châu Au, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không
nuốt được nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn cơm vốn
nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là thức ăn chung
và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất nhiều balaciam (nếu
không thì không có mùi vị) và do đó phải có một lượng lớn nước mắm và cũng do
đó phải liên tục đánh cá. Cũng không ít sò, hến và các hải sản khác, nhất là
một thứ họ gọi là cameron [16].
Nhưng ngoài tất cả những gì đã nói, Thiên
Chúa quan phòng còn dành cho họ một thức ăn hiếm và ngon, theo thiển ý tôi, chỉ
có thể so sánh được với manna [17] Thiên Chúa dùng để nuôi dân riêng của
Người trong sa mạc và thức ăn này rất đặc biệt chỉ có ở xứ Đàng Trong chứ không
đâu có. Những điều tôi sẽ nói thì không phải bởi tôi đã nghe hay theo người
khác kể lại, nhưng chính tôi có kinh nghiệm, tôi đã thấy và thường được ăn. Ở
xứ này có một thứ chim be bé giống như chim én, nó làm tổ [18] ở các cồn đá và hốc đá sóng biển vỗ vào.
Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát ra từ dạ dày, trộn cả hai
thứ lại làm thành một thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để làm tổ. Tổ này khi
đã khô cứng thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa xanh. Dân xứ này nhặt những
tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và tan rã, rồi dùng làm đồ gia vị trộn với
thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ nào khác làm cho các món ăn có một hương
vị khác nhau tuỳ món như thể đã sẵn cho hồ tiêu, quế, đinh hương hay các thứ gia
vị khác, như vậy chỉ một tổ yến mà có thể làm gia vị cho hết các thứ thịt,
không cần thêm muối, dầu, mỡ hay thứ gì tương tự. Vì thế tôi nói, nó giống như
manna, có hương vị của hầu hết các món thơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do
công trình của một con chim bé nhỏ và một đàng là do tay các thiên thần của
Thượng Đế nhào nặn. Thứ này nhiều đến nỗi chính tôi đã thấy người ta chất đầy
mười chiếc thuyền nhỏ những tổ yến nhặt ở dọc các hốc núi đá, trong khoảng chưa
đầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên chỉ có chúa độc quyền sử dụng, người
ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số lớn cống vua Tàu là người rất
chuộng.
Dân ở đây không dùng sữa, họ cho là trọng tội
nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo thiên nhiên thì sữa
dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà không được sử dụng thứ lương thực
dành riêng cho con.
Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và chúng ta
coi như độc, thí dụ con tắc kè, con vật này nhỉnh hơn những con đã phơi khô
nhập cảng từ ngoại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã thấy người bạn tôi mua mấy
con, buộc lại thành bó và đem nướng trên than hồng. Giây buộc đứt và chúng bò
lê thê theo kiểu của chúng trên than hồng cho tới lúc thấy sức nóng thì chúng
chống đỡ một chút vì lúc này rất lạnh, nhưng cuối cùng chúng bị thiêu và nướng
chín. Thế là ông bạn tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da đã cháy, thịt nó rất trắng,
ông bạn tôi nghiền thịt ra và trộn với một thứ “nước sốt” đem đun chín rồi bỏ
bơ vào ăn như một thứ thịt rất thơm ngon. Ông mời tôi, nhưng tôi không dùng,
chỉ nhìn theo mà thôi.
Còn về tất cả những gì thuộc đời sống hằng
ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa
đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần
tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, đất, vôi và những vật
liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đạp và quý họ mặc khỏi rách hay
bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng có những cây dâu cao lớn người ta
hái lá để nuôi tằm được trồng trong những thửa ruộng rộng lớn như cây gai ở bên
ta, và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ trong một ít tháng là tằm được đưa ra
nuôi ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ, làm thành những cái kén nhỏ với số
lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà
còn bán cho Nhật Bản và gửi sang nước Lào để rồi đưa sang Tây Tạng [19]. Thứ lụa này tuy không thanh và mịn
nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu.
Nhà cửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ,
nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ ở xứ
này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các nơi đó. Trong
vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường được dùng để làm nhà cửa
và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước hay vùi trong bùn, và rất
chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt nước và dùng làm neo tàu. Một
thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun, loại thứ hai có mầu đỏ hung. Cả
hai sau khi được lóc vỏ thì nhẵn và trơn không cần phải bào. Các cây đó gọi là
Tin [20] và rất có thể người đó không lầm khi nói
rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là gỗ chính vua Salomon đã dùng để dựng Đền
thánh và chúng ta được biết qua Kinh Thánh rằng thứ cây này được gọi bằng một
cái tên rất gần với tên này, ligna thying [21]. Núi xứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này,
thẳng tắp và cao ngất nghểu, như thể ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người
ôm. Người Đàng Trong dùng gỗ này để dựng nhà và ai nấy đều có thể lên núi chặt
tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều dựa vào hàng cột cao, chắc và đóng rất sâu,
rồi lắp ván, nhưng người ta có thể tháo gỡ ra và thay thế bằng phên liếp, bằng
tre, sậy đan rất tài tình để thông khí trong mùa nóng bức và một phần nào cho
nước và thuyền qua lại tự do vào mùa lụt lội như chúng tôi đã nói ở trên. Họ
cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh và nhiều hình hài khéo léo để tô điểm trang
trí nhà của họ, họ chạm trổ và đẽo gọt gỗ ván rất công phu.
Vì chúng tôi đang nói về cây cối và trước khi
qua đề tài khác, tôi xin thêm ít điều về một loại gỗ vốn là món hàng quý nhất
có thể xuất từ xứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó là thứ gỗ nổi tiếng gọi là
aquila và calamba [22]; cùng loại gỗ nhưng khác về tác dụng và
sự quý chuộng người ta dành cho chúng.
Loại cây này có rất nhiều, nhất là trên núi
Kẻ Mọi, cây rất to và rất cao. Nếu gỗ cắt ở thân cây non thì là trầm hương, có
rất nhiều và ai muốn lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng khi lấy ở gốc già thì đó là
kỳ nam rất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên cho những cây đó mọc lên ở những
ngọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được thảnh thơi già cỗi đi, không ai làm
hại được mình. Thỉnh thoảng có ít cành gẫy và rời khỏi thân rơi xuống, hoặc vì
khô quá hoặc vì già cỗi quá khi người ta nhặt được thì đã mục nát và mốc thếch.
Nhưng đó lại là thứ có giá nhất và lừng danh nhất gọi là kỳ nam vượt hẳn thứ
trầm hương thông thường rất nhiều về tác dụng và về hương thơm. Trầm hương thì
ai cũng có thể bán tuỳ thích nhưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương
thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Thực ra ở chính nơi nhặt được, nó rất thơm,
rất dịu, tôi đã muốn thử mấy miếng người ta cho tôi, tôi đem chôn dưới đất sâu
chừng hơn năm chân [23] thế mà vẫn ngửi thấy hương thơm. Kỳ nam
nhặt tại chỗ thì giá năm đồng đuca [24] một líu, nhưng ở hải cảng xứ Đàng Trong,
nơi buôn bán thì đắt hơn, nghĩa là hai trăm đuca một líu. Nếu tìm được một tấm
lớn có thể làm gối để gối đầu, còn hay làm gối dài [25] thì người Nhật mua tới ba trăm hay bốn
trăm đuca một líu. Là vì người ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên dùng làm gối
một thứ gì cứng hơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa hay sinh bệnh.
Thường thì họ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta mong có được
thứ gỗ quý nhất có thể sắm được [26]. Trầm hương thì ít được trọng hơn và giá
cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu chở đầy trầm hương cũng đủ cho thương gia
trở nên giàu có và sung túc suốt đời. Thế nên phần thưởng lớn nhất chúa ban cho
thuyền trưởng Malacca, đó là cho phép ông buôn trầm hương. Bởi vì người Bàlamôn
và người Banian [27] ở An Độ có tục hỏa thiêu xác người chết
bằng gỗ rất thơm, nên họ cần có ngay một số lượng lớn.
Sau cùng, xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim
khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng được
kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này bằng
lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng Trong
có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất dồi dào về mọi thứ.
Phải nói thêm ở đây chút ít về các thú vật
chúng tôi đã nói là có rất nhiều ở Đàng Trong, nhưng để khỏi nói nhiều, tôi chỉ
xin nói về voi và tê giác, nhất là ở xứ này và nhiều chuyện kỳ lạ chưa bao giờ
nghe thấy.
Chú thích
[1]
Ba vụ lúa: chúng tôi chưa biết rõ việc này.
[2]
Chanh ở Ý lớn hơn chanh của ta, màu vàng chứ không xanh như ta.
[3]
Theo Kinh Thánh, sau khi phạm tội ăn trái cấm, tổ tiên thấy mình trần truồng và
phải lấy lá che thân.
[4]
Có thể là một thứ chuối “ngự” thơm và nhỏ, hay một thứ trái cây nào khác.
[5]
Trái nói ở trên có thể là trái ổi còn trái “cam” này có thể là trái thanh long.
[6]
Có thể cho trái mít cũng thuộc về loại “sầu riêng”
[7]
Mít mật và mít dai
[8]
Món hạnh nhân tán nhỏ hòa với đường, rồi để vào tủ lạnh, món ăn rất sang của
người Châu Au vào thời này.
[9]
“Pouce” cách đo thời xưa cũng như kiểu đo gang tay hay sải.
[10]
Tiếng Pháp: noix
[11]Tiếng
Pháp: châtaignes
[14]
Nước sốt (sauce), một thứ nước dùng riêng đằng đặc gồm nước thịt và mỡ béo để
tưới vào các thức ăn khô và nhạt.
[18]
Chim yến, tổ yến. “Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cả con
trong biển, rồi đêm đến nhả nước dãi thành những vành tròn hình xoáy ốc để xây
tổ (Đỗ Tất Lợi: Những cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam , Hà Nội 1981, tr.945)
[19] Vào
thế kỷ 15, 16, 17 người Châu Au qua phương Đông nhất là Trung Quốc để buôn hồ
tiêu và tơ lụa, vì thế có con đường gọi là con đường tơ lụa (route de la soie)
[21]
Chúng tôi chưa nghiên cứu xem danh từ này có nghĩa thế nào. Nếu là lim thì theo
Đỗ Tất Lợi, sách dẫn, là những thứ cây mọc phổ biến của nước ta, nhất là tại
những khu rừng miền Bắc và miền Trung. Còn thấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc.
Thường người ta khai thác gỗ làm nhà, làm đồ dùng. Có thể cao hơn mười thước
hoặc hơn nữa (tr.361)
[24]
Đồng tiền này thường đúc bằng vàng vào thế kỷ 13 tại Venise (Ý) lúc đó là một
cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng. Líu: livre, tức nửa cân.
CHƯƠNG 4: VOI VÀ TÊ GIÁC
Rừng xứ Đàng Trong có rất nhiều voi, nhưng
người ta không sử dụng được vì chưa biết cách bắt và luyện chúng. Vì thế phải
đưa những con voi đã thuần phục và dạy dỗ từ nước láng giềng Campuchia. Voi ở
đây lớn gấp hai voi ở An Độ. Chân và vết chân nó để lại đường kính đo được
chừng nửa mét. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà voi thì dài tới 4.7m, đó là voi
đực. Ngà của voi cái thì ngắn hơn nhiều. Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở xứ
Đàng Trong to lớn hơn voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở Châu Au tới mức nào: ngà
của các con voi này chưa được 8 tấc.
Voi sống lâu năm. Một lần tôi hỏi tuổi một
con voi tôi gặp thì người quản tượng đạp là đã sáu mươi tuổi ở Campuchia và bốn
mươi ở Đàng Trong. Vì tôi đã di chuyển nhiều lần trên lưng voi ở xứ Đàng Trong
nên tôi có thể kể lại mấy câu chuyện kỳ lạ, nhưng có thật. Voi thường chở tới
mười ba hay mười bốn người, theo cách thức sau đây. Cũng như chúng ta thắng yên
trên lưng ngựa, người ta cũng đặt trên lưng voi một bành lớn như cỗ kiệu trong
đó có bốn chỗ ngồi và người ta buộc bằng chão sắt luồn dưới bụng voi như yên và
đai ngựa. Bành có cửa mở hai bên và có thể chứa được sáu người, ngồi làm hai
hàng, mỗi hàng ba người, một người ngồi ở đằng sau với hai người nữa, và cuối
cùng là người ngồi trên đầu voi để điều khiển và chỉ huy gọi là quản tượng.
Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng đã có mấy lần tôi theo
đường thuỷ, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn nửa dặm. Thật là kỳ diệu
đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng kiến một khối thịt rất lớn, rất
to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội trong nước như một chiếc thuyền có
chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực lắm, phần vì phải mang một khối lớn, phần vì
khó thở đến nỗi để cho bớt nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy nước và tung
lên rất cao làm cho người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong lòng biển cả.
Cũng vì nó to lớn như vậy nên rất khó cúi
mình. Thế nhưng nó cần phải khom xuống để cho hành khách tiện lên xuống. Nó
không bao giờ khom nếu không có lệnh của quản tượng, và nếu trong khi nó khom
xuống mà có ai còn quá nhởn nhơ mất thời giờ, hoặc còn chuyện vãn chào hỏi bè
bạn hay làm việc nào khác, tức thì nó chồm chân đứng lên vì không thể đợi được.
Như thế mới biết nó rất khó chịu khi phải giữ tư thế đó lâu.
Không có gì phải bỡ ngỡ khi thấy quản tượng
ra lệnh và nó thu xếp làm cho mình nó thành một thứ thang, có thể nói được như
vậy, rất tiện cho người ta leo lên bành. Để làm bậc thứ nhất, nó đưa chân khá
cao đối với đất. Nó giơ cổ chân cũng khá xa để làm bậc thứ hai, và để làm bậc thứ
ba, nó gấp đầu gối lại. Bậc thứ bốn là cái xương ở bên hông hơi dô ra một chút,
rồi nó lấy vòi đỡ bạn và đưa bạn tới chiếc xích buộc ở bành.
Ở đây mới thấy rõ sự lầm lẫn của những người
đã nói và còn để lại bút tích rằng voi không cúi mình được, cũng không nằm
được, thế nên muốn bắt nó chỉ có cách độc nhất là cưa thân cây nó dùng để dựa
mà ngủ, bởi vì khi thân cây đổ thì nó cũng ngã theo và cứ nằm như thế không sao
trỗi dậy được, nên làm mồi ngon cho người săn. Tất cả chỉ là chuyện huyền hoặc
vì thực ra khi nó ngủ, nó không bao giờ nằm, tư thế đó không tiện cho nó và gây
khó nhọc như chúng tôi đã nói. Thế nên, nó luôn ngủ đứng, đầu luôn luôn ngoe
nguẩy.
Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta
nhấc mui bành đi để làm thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với súng
và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để chở vì là con vật rất khoẻ,
nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật
rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới
mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo
và đưa xuống biển. Tôi cũng thấy những con khác nhổ những cây to lớn mà không
mấy vất vả như thể chúng ta nhổ su hào hay rau diếp. Chúng cũng dễ dàng ném
xuống đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy phố khi được lệnh trong trận
chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để không cho ngọn lửa bén khi có
hoả hoạn.
Vòi nó dài so với bề cao của thân mình, nên
không cần nghiêng hay cúi, nó dễ dàng lượm đồ vật dưới đất tuỳ ý. Vòi này gồm
nhiều bó gân kết lại và xoắn với nhau, một đàng làm cho nó rất mềm dẻo và dễ
xoay trở đưa ra khi cần để cầm những món đồ rất nhỏ, và đàng khác làm cho nó
cứng và khoẻ như chúng tôi đã nói. Toàn thân mình nó bọc lớp da cứng và ráp,
màu tro. Mỗi ngày nó thường đi được chừng mười hai dặm. Đối với những người
không quen thì sự vận chuyển của nó gây khó chịu cũng như người chưa quen đi
biển bị say sóng vì thuyền chòng chành.
Về sự dễ bảo của voi thì tôi sẽ kể những việc
kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để cho biết là người nói câu này
rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior: trong các con vật khổng lồ,
không con nào khôn bằng voi [1]
vì thấy nó thực hiện được những việc làm cho người ta tưởng nó có trí thông
minh và khôn ngoan. Trước hết, mặc dầu quản tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài
chừng bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh
truyền, thế nhưng thường thường họ điều khiển và chỉ huy bằng lời nói, đến nỗi
tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có mấy con biết tới ba hay bốn thứ tiếng rất
khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia trong đó nó đã sống. Thí dụ con voi đã đưa
tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì gốc nó ở đó, rồi tinh thông tiếng Đàng Trong
là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ khi thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn
dò về hành trình và đường đi lối bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và
sau cùng kể chi tiết tất cả các việc nó phải làm trong ngày.
Và voi làm phận sự mình một cách chính xác
như một người có lương tri và phán đoán có thể làm được. Đến nỗi sau khi voi
coi như đã biết nơi phải đi thì nó cứ thẳng tắp thi hành bằng con đường ngắn
nhất, không lần chần do sự tìm lối quá quen hay không bỡ ngỡ vì gặp sông lớn,
rừng già hay núi cao. Nó cho rằng nó dễ dàng vượt qua hết, nó cứ lên đường và
theo lộ trình, vượt hết mọi thứ khó khăn. Nếu gặp sông phải qua thì nó hoặc
bước sang chỗ cạn hoặc ngoi lội chỗ nước lớn. Nếu phải qua rừng thì nó đè bẹp
cành cây ngáng trở, dùng vòi nhổ cây dọn thành con đường rộng và dễ đi, rừng
rậm rạp đến đâu đi nữa cũng có lối đi nếu thấy voi đã qua và đã mở đường. Tất
cả những việc này voi làm theo lệnh của quản tượng, một cách dễ dàng, nhanh
chóng và mẫn cán. Chỉ có một bất tiện cho con vật này và làm cho nó khổ sở, đó
là khi có gai hay vật gì tương tự đâm vào bàn chân nó vốn mềm và nhạy cảm một
cách lạ lùng, mặc dầu nó rất cẩn thận bước từng bước, khi qua nơi hiểm trở. Có
lần trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp theo nhau, tôi nghe
thấy các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình phải thận trọng khi đặt
chân vì trong một quãng đường chừng nửa dặm chúng phải qua một bãi cát trong đó
thường có gai.
Nghe thế, các con voi đều cúi đầu, mở to mắt
như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất. Chúng bước từng bước, rất
chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới khi nghe báo là không còn
phải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục hành trình như trước. Ngày
hôm sau phải đỗ lại ở một nơi không có rừng cây nên mỗi quản tượng đều đem một
bó cây tươi và khá lớn cho voi. Tôi rất thích thú nhìn xem một con dùng vòi với
lấy cây một cách khéo hơn các con khác, rồi dùng răng bóc vỏ và ăn rất nhanh,
rất ngon như chúng ta ăn trái vả hay một trái nào khác vậy. Ngày hôm sau, tôi
ngồi trò chuyện với những hành khách khác, chừng hai mươi người. Tôi cho họ hay
về sự thích thú đặc biệt của tôi khi thấy con voi ăn cành cây một cách ngon
lành. Lúc ấy, quản tượng theo lệnh của người chủ voi lớn tiếng gọi con voi với
cái tên của nó là gnin và vì nó ở hơi xa nên nó ngẩng đầu vểnh tai lắng nghe
xem người ta muốn nói gì với nó.
Quản tượng bảo nó rằng: mi làm vui lòng ông
cha đi đường này đi, hôm qua ông đã thích thú nhìn mi ăn, bây giờ mi cầm lấy
một cây như cây hôm qua và tới trước mặt ông ta và làm như mi đã làm. Quản
tượng vừa nói dứt lời thì voi đã đến trước mặt tôi, vòi quấn một thân cây, rồi
nhìn tôi trong đám người khác, giơ cho tôi coi rồi bóc vỏ và ăn, sau đó cúi đầu
chào tôi và rút lui như thể mỉm cười, với những dấu hiệu thích thú và mừng rỡ.
Còn tôi, tôi rất ngạc nhiên thấy ở nơi một con thú có nhiều khả năng hiểu biết
và thi hành điều người ta truyền cho nó như vậy. Thực ra nó chỉ vâng theo quản
tượng hay chủ nó mà thôi. Nó cũng không để cho người nào lạ leo lên cưỡi: nó mà
thấy thì nó sẽ quăng bành xuống đất và dùng vòi mà sát hại người ấy. Vì thế,
khi có người phải leo lên thì quản tượng lấy tai nó che mắt nó, tai nó to và
xấu xí. Khi nó không chịu nghe lệnh truyền và không nhanh nhảu làm theo thì quản
tưởng đứng hai chân trên đầu nó, đánh và trị nó rất nặng, rất cương quyết, lấy
roi quất mạnh trên trán nó. Có lần mấy người chúng tôi cùng đi chung một voi
chở chúng tôi, người quản tượng đánh nó như chúng tôi vừa nói, mỗi lần roi quất
trên nó, chúng tôi tưởng như nó sẽ ném chúng tôi xuống đất. Thường thường người
ta quất sáu bảy cái vào giữa trán nó, và mạnh đến nỗi làm voi rùng cả mình:
phải nhận là nó rất kiên nhẫn chịu đựng.
Chỉ có một trường hợp nó không vâng theo quản
tượng và bất cứ ai, đó là khi nó bất thần động đực, vì lúc đó hình như nó không
tự kiềm chế nổi, nó không chịu ai, nó lấy vòi ném bành và mọi người trong đó,
nó giết, nó huỷ và phá vỡ tan tành. Thường thì quản tượng biết trước qua một
vài dấu hiệu. Lập tức, mọi người xuống đất, tháo gỡ bành và để nó một mình ở
một chỗ xa cho tới khi nó hết cơn. Sau đó, như thấy mình đã gây nên xáo trộn và
như tự lấy làm hổ thẹn, nó cúi đầu chịu đánh đập như một kẻ phạm tội.
Thời xưa người ta dùng voi rất có ích trong
chinh chiến và đạo binh nào ra trận với những con vật như vậy thì thật là đáng
sợ. Nhưng từ khi người Bồ tìm được cách ném tàn lửa và đuốc vào mũi chúng thì
càng làm cho chúng gây hại hơn trước. Bởi vì chúng không thể chịu được lửa đốt
làm cay mắt nên chúng đùng đùng chạy trốn và làm tan tác đạo binh, giết hại và
phá phách tất cả những gì cản đường chúng. Voi nhà chỉ sợ hai con thú khác là
voi rừng và tê giác, nó có thể thắng được tê giác, nhưng đối với voi rừng thì
thường nó chịu thua.
Tê giác là một thú vật có một cái gì giống bò
và ngựa, nhưng lại to lớn như một con voi con. Mình nó đầy vẩy [2]
như những yếm để tự che thân. Nó chỉ có một sừng ở ngay giữa trán, thẳng tắp và
có hình kim tự tháp, còn chân và móng thì như bò. Khi tôi ở Nước Mặn một xã
thuộc tỉnh Quy Nhơn, có biết một viên quan lần nọ đi săn tê giác ở trong khu
rừng gần nhà chúng tôi. Ông đem theo hơn một trăm người, một phần đi bộ, một
phần đi ngựa cùng với tám hay mười con voi. Con tê giác ra khỏi khu rừng và một
số đông địch thù, nó không những không tỏ vẻ sợ hãi mà còn thu hết sức lực giận
dữ xông tới, thế là đạo binh phân tán làm hai cánh để cho con tê giác lọt vào
giữa và chạy tới hậu quân có viên quan đứng chờ để giết nó. Viên quan ngồi trên
lưng voi, voi cố lấy vòi chộp lấy tê giác, nhưng không sao làm nổi vì tê giác
nhảy tứ tung, cố dùng sừng để đâm voi. Viên quan biết rõ tê giác vì có vẩy nên
không dễ gì bị thương nếu chỉ đánh vào bên cạnh. Ông chờ đến lúc nó nhảy lên và
phơi bụng ra, lúc đó ông nhắm, và rất thiện nghệ, ông ném ngọn đao đâm suốt từ
bụng tới lưng, giữa tiếng hò hét vui mừng của cả đạo quân. Không chờ đợi gì nữa
họ lập tức quơ một đống củi lớn, châm lửa đốt, trong khi vẩy con thú bị thiêu
và thịt nướng chín thì họ nhảy múa chung quanh, mỗi người tiếp theo nhau xẻo
thịt đang chín dần dần và ăn vui vẻ. Sau đó họ mổ lấy tim, gan và óc để dọn món
mĩ vị đem hầu viên quan lúc này đã lui ra xa một chút, ở một nơi khá cao, vui
mừng và thích thú nhìn xem cuộc vui. Còn tôi, tôi có mặt trong cuộc, tôi cũng
có phần và phần của tôi là móng con vật viên quan cho tôi, móng đó cũng có
những tác dụng và tính chất như móng voi, dùng làm thuốc chống ngộ độc một cách
tuyệt diệu không hơn không kém sừng kỳ lân [3]
Chú thích
[1]
Tiếng Latinh trong văn bản: “Elephanto belluarum nulla prudentior”
[2]
Theo Đỗ Tất Lợi, sách đã dẫn: “da nhẵn không sùi màu, biểu bì có rãnh nhỏ chia
làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với nhau bởi
nhiều nếp, nếp trước và sau vai cũng như nếp trước đùi kéo dài qua lưng. Nếp
gáy tương đối kém phát triển. Màu da xám thẫm toàn thân” (Sd, tr.984) Thường có
một sừng, nhưng cũng có tê giác hai sừng, Sd tr.985
[3]
Tiếng Pháp “La licorne”. Nhưng kỳ lân phải chăng là thú hoang đường?
CHƯƠNG 5: VỀ TÍNH TÌNH,
PHONG HÓA, TỤC LỆ NGƯỜI ĐÀNG TRONG, CÁCH SỐNG, CÁCH ĂN MẶC VÀ THUỐC MEN CỦA HỌ
Về màu da thì người Đàng Trong không khác
người Tàu, tất cả đều có sắc xám xanh [1],
nếu là người ở ven biển, còn những người khác từ nội địa cho tới biên giới Đàng
Ngoài thì cũng trắng như người Châu Au. Về nét mặt thì cũng giống, như người
Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói,
họ không quá lùn như người Nhật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân
hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật
là hơn họ về một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến
trận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất cứ giá nào. Người Đàng
Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân phương
Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm, nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận.
Tất cả các nước phương Đông đều cho người Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên
họ ghét mặt đến nỗi khi chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế
nhưng trái lại ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với
chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã
giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các
đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng tôi
như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu.
Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kitô đến
rao giảng Phúc âm.
Từ tính tình rất trọng khách và cách ăn ở
giản dị đó mà họ rất đoàn kết với nhau, rất hiểu biết nhau, đối xử với nhau rất
thành thật, rất trong sáng, như thể tất cả đều là anh em với nhau, cùng ăn uống
và cùng sống chung trong một nhà, mặc dầu trước đó chưa bao giờ họ thấy nhau,
biết nhau. Họ coi là một nết rất xấu, nếu ai ăn món gì dù rất nhỏ mịn mà không
chia sẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một miếng. Họ có tính quảng đại, hay bố thí
cho người nghèo, họ có thói quen không bao giờ từ chối, không cho kẻ xin bố
thí. Họ nghĩ là sẽ không làm đủ bổn phận nếu từ chối, họ coi như bị ràng buộc
bởi phép công bằng. Do đó có lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tàu và được cứu
tại một cảng Đàng Trong. Họ không biết tiếng để xin người ta cho thức ăn để
sống, họ chỉ cần học một chữ thôi cũng đủ, đó là chữ đói, có nghĩa là tôi đói.
Bởi vì vừa nghe thấy người ngoại quốc than thở như vậy và đi qua các cửa nhà
người dân mà kêu đói, thì tất cả đều động lòng thương và cho họ ăn, đến nỗi chỉ
trong một thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều thức ăn dự trữ, đến khi chúa
cấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì chẳng ai muốn đi vì họ quyến
luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những người rộng rãi cho họ các thứ để sống
mà không phải làm việc. Cuối cùng người thuyền trưởng buộc phải vác gậy đánh
đập họ, thì họ mới chịu sửa soạn xuống tàu, đem chất trong tàu thóc gạo họ đã
xin được, khi họ đi gõ cửa các nhà và kêu đói.
Nếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng rãi
hay cho, thì mặt khác họ lại hay xin những gì họ thấy. Thế nên khi họ vừa đưa
mắt nhìn thấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ đem lòng thèm muốn và nói
ngay xin một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ coi là rất bất lịch sự nếu
người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và chỉ có một cái mà thôi. Ai từ
chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do đó một là nên giấu đi, hai là sẵn sàng
cho người nào xin.
Một thương gia người Bồ không ưa cách cư xử
lạ lùng đó, bởi vì hễ họ trông thấy ông cầm đồ vật gì đẹp trong tay là họ xin
liền. Một hôm ông nhất quyết cũng làm thử như họ. Ông tới gần thuyền của một
người đánh cá nghèo và để tay trên một cái rổ lớn đầy cá, ông nói bằng tiếng
bản xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này. Chẳng nói chẳng rằng, người
thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông đem về. Người Bồ đem về nhà, rất sửng
sốt và khen ngợi lòng quảng đại của người Đàng Trong. Thực ra vì thương người
thuyền chài nghèo khổ, nên sau đó ông trả tiền rổ cá theo giá của nó.
Những từ ngữ về đối thoại, giao tiếp và lịch
sự thì cũng giống như từ ngữ Trung Hoa. Người dưới rất kính trọng người trên,
cũng như kẻ bằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả cách thức tỉ mỉ và những
lời khen tế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt nơi người Trung Hoa, nhất là
họ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi tác, bao giờ họ cũng nể người có tuổi
hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế nào, bao giờ họ cũng
nhường ưu tiên cho người già hơn. Vì thế có một lần mấy viên quan lớn tới thăm
nhà chúng tôi, mặc dầu đã được người thông dịch cho họ biết là có một cha có
tuổi hơn cả, nhưng không phải là Bề trên, thế nhưng không tài nào ngăn cản họ
chào người có tuổi đó trước hết, sau mới chào Bề trên, là người trẻ tuổi hơn.
Trong tất cả các nhà cửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn đến đâu đi nữa, người
ta cũng giữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là ngồi trên chiếu trải trên
đất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai là ngồi
trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và mịn hơn,
dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba là trên một thứ bục [2]cao
hơn đất chừng tám tấc làm thành như cái giường và chỉ dành cho các quan và bậc
chức vị bản địa hay những người lo việc thiêng liêng, như các cha dòng chúng
tôi thường được ngồi.
Vì người Đàng Trong tử tế và có tính tình hòa
nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự do sống theo đạo
của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen cách làm của người nước
ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và dễ dàng chuộng đạo giáo của
người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn với người Tàu, họ chỉ khen
ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ mà thôi.
Còn về y phục thì như chúng tôi đã nói, tơ
lụa rất thông dụng ở xứ Đàng Trong đến nỗi ai cũng mặc hàng tơ lụa. Bây giờ chỉ
nói về cách họ mặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ [3],
phải nhận rằng cách mặc của họ tôi vẫn coi là giản dị hơn khắp cõi An Độ, vì họ
không để lộ một phần nào trong thân thể, ngay cả trong những mùa nóng bức nhất.
Họ mặc tới năm hay sáu váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia và tất cả có màu
sắc khác nhau. Cái thứ nhất phủ dài xuống chấm đất, họ kéo lê rất trịnh trọng,
khéo léo và uy nghiêm đến nỗi không trông thấy đầu ngón chân. Sau đó là cái thứ
hai ngắn hơn cái thứ nhất chừng bốn hay năm đốt ngón tay, rồi tới cái thứ ba
ngắn hơn cái thứ hai và cứ thế trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ ngắn hơn cái
kia, để cho các màu sắc đều được phô bày trong sự khác biệt của mỗi tấm. Đó là
thứ phái nữ mặc từ thắt lưng xuống bên dưới. Còn trên thân mình thì họ khoác
vắt chéo như bàn cờ với nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một tấm
voan rất mịn và rất mỏng cho người ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng
khác mùa xuân vui tươi và duyên dáng, nhưng cũng không kém trịnh trọng và giản
dị.
Họ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để
tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp. Họ đội trên đầu một thứ
mũ lớn riềm rộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông xa hơn ba hay bốn bước
trước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến tuỳ theo gia thế của
từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ làm gì khác khi phải chào hỏi
những người mình gặp, ngoài việc cất nón đủ để trông thấy mặt.
Đàn ông [4]
thì không nai nịt, nhưng quàng cả một tấm, rồi cũng thêm năm hay sáu áo dài và
rộng. Tất cả đều bằng lụa màu sắc khác nhau với ống tay rộng và dài như ống tay
các tu sĩ Biển Đức. Còn từ thắt lưng trở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu
rất khéo và rất đẹp. Thế nên khi ra phố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu
có gió nhẹ thổi từ bên trong làm tung bay thì thực ra có thể nói là những con
công xoay tròn khoe màu sắc đẹp của mình.
Họ cũng để tóc dài như đàn bà, cho xõa tóc
tới gót chân và cũng đội nón. Người có râu thì hiếm, họ không bao giờ cắt. Về
điểm này, họ làm theo người Tàu. Họ còn để móng tay dài: người quý phái không
bao giờ cắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu của sự quý phái, và để mình
khác biệt với thường dân và thợ thuyền, những người này không để dài được vì
vướng tay trong khi hành nghề, tỉ như kị mã để móng tay dài thì không sao nắm
chặt dây cương trong lòng bàn tay. Họ không thể thưởng thức cách cắt tóc ngắn
và cắt móng tay của chúng ta, họ nại lý do là thiên nhiên ban cho các thứ đó để
trang trí bản thân con người. Có lần nói chuyện về tóc, họ bác bẻ chúng ta và
không dễ gì đáp lại được lúc đầu. Họ nói, nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các ông khoe
là các ông bắt chước hết mọi việc Người làm, nhưng chính Người để tóc dài theo
kiểu người Nagiarét, như chính các ông quả quyết và cho chúng tôi coi hình ảnh,
thì tại sao các ông không làm theo như Người. Họ nói thêm để cho có thế lực hơn
nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài, như vậy là Người muốn cho chúng ta biết đó
là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng hài lòng khi chúng tôi trả lời là bắt chước
không phải là làm theo một cách lố lăng.
Các văn nhân và tiến sĩ thì ăn mặc trịnh
trọng hơn, không màu mè loè loẹt. Họ choàng lên trên tất cả một áo dài đen. Họ
còn khoác một thứ khăn quấn cổ và ở cổ tay một khăn bằng lụa màu da trời, còn
đầu thì thường đội một thứ mũ kiểu như mũ giám mục. Cả đàn ông đàn bà đều ưa
cầm quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy lệ thôi. Người Châu Au
chúng ta khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng màu trắng. Khi họ chào nhau,
không bao giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là không lịch sự, cũng giống như người
Tàu, họ cho đó là không phải phép đối với người thế gia và rất vô lễ. Vì thế, để
cho hợp với họ các cha dòng chúng tôi đã thấy cần phải được đức giáo hoàng
Phaolô V cho phép dâng thánh lễ đầu đội mũ trong những miền đất này.[5]
Sau cùng người Đàng Trong không đi dép cũng
không đi giầy, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mấy giây lụa và khuy
trên mu bàn chân như kiểu săn đan của ta để cho bàn chân không bị đâm: Họ cho
rằng đi chân không không phải là không biết cách ăn ở, họ đi dép hay đi chân
không thì chân họ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm, nhưng họ không ngại vì trước nhà họ
bao giờ cũng có một chậu đầy nước để rửa chân. Còn kẻ đi dép thì phải để dép ở
ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì trong nhà không cần, họ đã trải chiếu nên họ không sợ
bẩn. [6]
Dân Đàng Trong rất trọng những tục lệ của họ.
Họ khinh những tục lệ của người ngoại quốc như người Tàu. Các cha không cần
thay đổi y phục, thực ra không khác cách ăn vận chung ở khắp An Độ. Các ngài
mặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon thường làm màu thanh thiên và ra
nơi công chúng như thế không thêm áo dái hay áo choàng [7].
Cũng không đi giầy như tục người Châu Au hay người bản xứ: vì giầy Châu Au thì
làm gì có mà đi và cũng không ai biết làm [8],
còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho người chưa quen, nên
đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón nọ cách xa ngón kia,
do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài nhất là trong lúc đầu, vì
đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau một thời gian thì theo tính tự
nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không có thấy khó chịu, mặc dầu phải
đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen lắm đến nỗi khi
trở về Macao ,
tôi không chịu được giầy, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân tôi vướng víu
làm sao. [9]
Thức ăn thông thường nhất của người Đàng
Trong là cơm và thật là điều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà,
vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại là cơm, họ xới thật
nhiều cơm, ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm náp các món thịt như
để theo nghi lễ. Lương thực chính yếu của họ là cơm như bánh mì là lương thực
chính của chúng ta; họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm, không cần nước sốt hay
món gì khác vì sợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ hay muối hay dầu mỡ hay
đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước thôi để cho cơm không dính
vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn, chỉ mềm một chút và dẻo. Họ
còn kinh nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì
thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và ăn rất
nhiều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi hỏi.
Người Đàng Trong ngồi trên đất để ăn, chân
xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm được khắc vẽ chạm trổ tỉ
mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của người dùng. Mâm này không
lớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng [10],
cho nên trong bữa tiệc có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn
riêng ở nhà họ cũng giữ như vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng
chung một mâm. Họ không dùng dao hay xiên trong mâm, thực ra họ không cần dao,
xiên. Họ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong bếp và
thay vì xiên thì họ dùng những đũa nhỏ rất nhẵn nhụi họ cầm giữa các ngón tay
để gắp một cách rất khéo léo, rất sành sỏi, nên không cần gì khác. Họ cũng
không cần khăn ăn vì không hề dùng tay, không bao giờ lấy thịt mà không dùng
đũa.
Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa lân bang
với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi đã nói trước
đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở nhà mình. Và mặc dầu người mời là
người nghèo, người ta không tin ông thành thực, nếu mỗi khách mời không có
trong mâm ít nhất là một số các món ăn. Bởi vì họ có thói quen mời tiệc tất cả
bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn mươi,
năm mươi người, có khi một trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự một đám
tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba nghìn người. Cho nên tiệc này phải làm ở
thôn quê là nơi có chỗ rộng để bày mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những
mâm nhỏ như chúng tôi đã nói. Trên đó bày tới cả trăm món, vả trong những dịp
này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với những thanh
nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các món, gồm tất
cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật bốn cẳng, gia súc hay
dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong mùa. Nếu chẳng may thiếu một
thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và người ta không coi bữa ăn đó là bữa tiệc.
Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc trên thì đứng hầu, khi chủ ăn xong thì tới
phiên toán gia nhân bậc trên có đầy tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến
lượt những người đầy tớ bậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất cả những món
đầy rẫy đó và theo tục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho
thoả thuê. Một mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê thỏa, còn
thừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về nhà cho vợ con
được no nê [11].
Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đàng Trong không có nho, do đó cũng không có
rượu nho, họ dùng làm rượu một thứ gạo cất có mùi vị như rượu của ta, giống cả
về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có rất nhiều rượu đến nỗi mọi
người đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và không hề buồn vì không có rượu
nho ở những miền này. Thế nhưng, những người khá giả thường có thói quen pha
thêm một thứ rượu cất ở cây trầm hương làm cho mùi vị có một hương thơm đặc
biệt, sự pha trộn này rất thành công.
Trong ngày họ có tục dùng một thứ nước rất
nóng, trong đó nấu một thứ rễ cỏ [12]
gọi là trà, cũng là tên thứ nước uống đó, thứ nước này rất bổ và giúp cho tan
các chất xấu trong dạ dày và làm cho dễ tiêu. Ngừơi Nhật và người Tàu cũng
dùng, trừ ở Tàu, người ta không dùng rễ mà dùng lá và ở Nhật người ta tán nhỏ,
nhưng hiệu lực thì cũng giống nhau và tất cả đều gọi là trà.
Thật là một sự không thể tin được là người
Châu Au chúng ta ở đây có rất nhiều thịt thà và dồi dào về đủ mọi thứ, thế mà
chúng ta vẫn còn đói, còn khát, không phải vì thiếu thịt mà vì không quen với
các thứ đó, bản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì và rượu nho một cách đột
ngột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ cảm thấy như thế, nếu họ tới
Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều thứ thịt ngon và rất dồi dào. Tôi
kể ở đây một việc đã xảy đến với một quan cai trị xứ Đàng Trong. Ông này là bạn
thân của chúng tôi, chúng tôi mời ông đến nhà chúng tôi dùng cơm và để tỏ mối
thịnh tình khăng khít của tôi đối với ông thì chúng tôi dọn nhiều món theo lối
Châu Au của chúng tôi. Ông ngồi vào bàn và thay vì như chúng tôi tưởng ông sẽ
chiều ý chúng tôi mà khen ý tốt lành của chúng tôi và cảm ơn về sự mới lạ này,
bởi vì chúng tôi đã không tiếc công, nên thử dọn cho ông hết các món liên tiếp.
Thế nhưng không có món nào ông có thể dùng được, mặc dầu ông cố gắng tỏ ra hết
sức lịch thiệp và thành tâm [13].
Đến nỗi chúng tôi đành phải đem lên những món thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ
nhiên, chúng tôi cũng cố gắng hết sức. Lúc ấy ông mới ăn ngon lành và hài lòng,
còn chúng tôi mới thỏa dạ. Thế nên, về việc ăn uống cũng như về những gì chúng
tôi đã nói như về việc đi chân không, bản tính tự nhiên cũng cho quen dần với
nếp sống bản xứ, tập cho thành thục và làm rất đúng đến nỗi thức ăn ban đầu trở
nên kỳ dị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi đã nghiệm thấy, khi tôi về từ
những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng được ăn cơm xứ Đàng Trong mà tôi
thấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây người ta đem cho tôi.
Còn về thầy thuốc và cách chữa các bệnh nhân,
tôi phải nói là có rất nhiều, người Bồ cũng như người bản xứ, và người ta
thường thấy nhiều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu Au không chữa được thì đã
được khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi một cách dễ dàng. Không ít
lần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân, coi như xong rồi, thế nhưng
bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ dàng nếu gọi được một lương y bản
xứ.
Phương pháp của họ là thoạt vào phòng người
bệnh, họ ngồi nghỉ một lát gần giường bệnh, để cho dịu cảm xúc khi tới đây. Rồi
họ bắt mạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ nói ông hay bà mắc chứng gì
và nếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho biết, tôi không có thuốc chữa
bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có thể chữa được bằng thứ thuốc nào của họ
thì họ cũng cho biết, tôi có cách chữa ông, bà và trong bao lâu, tôi sẽ chữa
ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ bàn về tiền thù lao cho lương y trong trường hợp
khỏi bệnh. Tiền nhiều ít tuỳ theo tính chất và sự nặng nhẹ của bệnh và có lần
hai bên có hợp đồng với nhau. Rồi chính lương y bốc thuốc, không cần tới dược
sĩ, vì thế họ không có dược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ bí mật của các liều thuốc
họ cho, vì thế họ hết sức giấu, một phần cũng vì họ không dám tin tưởng vào một
người nào khác bốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu bệnh nhân phục hồi sức khoẻ
trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả, thường diễn ra như vậy, thì buộc
phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với nhau, nhưng nếu không khỏi thì
lương y mất cả công, mất cả thuốc.
Thuốc họ cho bệnh nhân uống thì không như
thuốc chúng ta, vừa khó uống lại làm yếu và làm cho bụng ươn lười, nhưng dễ
uống như canh [14]
và cũng rất bổ, không cần ăn thêm món nào khác. Vì thế họ cho bệnh nhân uống
mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh thoảng cho uống nước thịt. Các vị thuốc đó
không biến đổi cơ thể, nhưng giúp các chức năng hoạt động thông thường, làm khô
kiệt những chất hư mà không động tới người bệnh. Có một điều phải tường thuật
lại ở đây vào chương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho mời lương y Châu
Au tới và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh nhân coi như chết
không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ, ông này hứa chữa
trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong thời gian ông chữa
bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì cực kỳ nguy hiểm và ông không
thấy có thuốc nào trong y khoa có thể cứu thoát cơn nguy hiểm bệnh nhân đang
chịu và chỉ cần điều kiện đó thôi. Hai bên thỏa thuận là lương y sẽ chữa khỏi
trong vòng ba mươi ngày. Người bệnh uống thuốc theo đơn lương y cho và trong
một ít ngày, bệnh nhân đã khỏi, nhưng không chịu nghe theo điều thầy thuốc đã
cấm đoán rõ ràng. Thế là lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có sự thay đổi.
Ông biết chắc là người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho biết là bệnh
nhân phải chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không còn thuốc nào cứu chữa
được nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền thù lao như đã thỏa thuận bởi vì người
bệnh chết nhưng lỗi không phải tại thầy thuốc. Người ta xử việc này và tòa ra
lệnh cho bệnh nhân phải trả tiền cho lương y, sau đó người bệnh nhắm mắt lìa
đời.
Họ cũng dùng cách chích máu, nhưng họ tiết
kiệm máu hơn cách người ta làm ở Châu Au và họ không dùng kim chích thông
thường: họ có nhiều lông ngỗng, trong đó có ghép những mảnh sứ nhỏ rất sắc và
được dùng như những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và khi phải đâm vào mạch
máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này, lớn nhỏ tuỳ theo nhu cầu và lấy
ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch máu, mũi mảnh sứ chỉ đâm đủ theo nhu cầu
mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn hết là khi đã lấy đủ máu thì họ không cần băng
bó, không cần miếng gạc, không cần buộc cột gì cả: họ liếm ngón tay cái cho có
nước bọt và ấn trên vết thương, làm cho da khép lại, máu ngừng tức thì và vết
thương lành ngay. Được vậy tôi cho là do cách thức họ mở mạch máu với mũi sứ
nhọn làm cho sạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng.
Không nhiều nhà giải phẫu có nhiều bí quyết
kỳ diệu. Tôi không muốn đưa ra chứng cớ nào khác bằng việc họ đã làm cho chính
bản thân tôi và một bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã từ một nơi cao xuống và bên
chỗ có dạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt đầu thổ ra máu và ngực tôi
cũng bị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy liều thuốc theo cách bên Châu Au của
chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt chút nào. Trong khi đó may có một thầy giải
phẫu bản xứ tới, thầy lấy một thứ cỏ nào đó giống như cỏ xổ [15]
làm thành một thứ cao và đắp trên dạ dày, rồi cũng sắc những thứ cỏ đó cho tôi
uống, lại cho ăn sống nữa và trong mấy ngày tôi hoàn toàn hồi phục. Để thí
nghiệm lại, chính tôi đập gãy chân một con gà mái ở nhiều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ
làm thành cao và đắp trên những vết chân gãy, thế là sau ít ngày nó khỏi hẳn.
Một con bọ cạp đã cắn vào cổ một bạn đồng sự
của tôi và ở xứ này đây sẽ là vết tử thương. Tức thì cổ sưng vù và khi chúng
tôi chuẩn bị làm phép xức dầu thì người ta mời một thầy giải phẫu tới. Thầy cho
nấu tức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân người bệnh, lấy vải quấn chung
quanh cho hơi và khói nóng không bay đi. Thế là hơi bốc lên tận vết thương và
người đồng sự của tôi cảm thấy bớt đau nhức, cổ bớt sưng vù và được khỏe mạnh
như thể chưa bao giờ bị đau.
Người ta còn có thể thêm nhiều thí dụ tương
tự, nhưng tôi chỉ nói rằng thuốc ở những miền này có hiệu lực hơn thuốc ở đây
(Châu Au). Và riêng tôi, tôi có thể thêm rằng tôi đã đem theo tôi cây đại hoàng[16]
trong một hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt. Khi tôi về tới Châu Au sau hai
năm hành trình, tôi thấy cây đại hoàng của tôi đã biến chất khiến tôi không
nhận ra nữa, nguyên chất mất hết công dụng khi chuyển từ những xứ đó về xứ
chúng ta.
Chú thích
[1]
Bản Pháp văn “olivâtres” xám xanh như trái ô liu.
[2]Cách
thứ hai: một thứ võng? Cách thứ ba: khó tưởng tượng ra được, một thứ bục. Phải
tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà vào thế kỷ 17, nhất là miền Nam lúc đó.
[3]
Về y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho rõ. Trong câu ngạn ngữ thường thấy “Mớ bảy
mớ ba”, có thể nghĩ như vậy.
[4]
Cũng thế, y phục phái nam thời đó trong địa phương đó, như đã nói, có thể có
ảnh hưởng người Chàm.
[5]
Một trong những điều xin Tòa thánh chuẩn là dâng Thánh lễ đội mũ như cách thức
người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ cũng đội mũ. Đức Piô V (1504-1572) làm giáo
hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng Đaminh và làm quan toà Inquisition trước khi
ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực thi công đồng Trente, ban hành sách Giáo lý
công đồng Trente, sửa lại sách Kinh nguyện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong
hiển thánh năm 1712.
[6]
Theo tục người Châu Au, đi chân không là vô lễ.
[7]
Thời đó, bên Châu Au, linh mục ra ngoài đường phố thì khoác thêm một áo choàng.
Philipphê Bỉnh có nói tới tục này trong sách “Sổ Sang chép các việc”.
[8]
Nhận xét rất đúng, người Việt Nam
chưa biết đóng giầy như ở Châu Au.
[9]
Giáo sĩ quen nếp sống bản xứ: xem thêm việc ăn cơm.
[10]
Theo Borri thì trong khi hội họp đình đám vẫn mỗi người một mâm
[11]
Tục lấy phần về
[12]
Thường thì lá cây chứ không phải rễ.
[13]
Theo lịch sự, thì cho dù mình không thích nhưng cố gắng dùng và khen cái mối
thịnh tình của người ta.
[14]
Không phải là canh, cũng không hẳn là cháo, nhưng là thứ “potage” bằng nước
thịt hay nước các thứ rau nấu chín.
[15]
Mercurialle, theo Đỗ Tất Lợi thì có Mercurialis indica Lour (lộc mai) thuộc
loại thầu dầu, không biết có phải vậy không?
[16]
La rhubarbe. Đỗ Tất Lợi , sd , về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp người
ta làm mút với thân cây này.
CHƯƠNG 6: VỀ HÀNH CHÍNH VÀ
DÂN CHÍNH NƠI NGƯỜI ĐÀNG TRONG
Tôi sẽ nói vắn tắt đủ để hiểu biết một cách
ngắn gọn. Bởi vì nếu tôi trình bày dài dòng quá thì tôi sẽ đi xa ý tôi đã định
cho tôi trong bản tường trình này. Nói chung thì việc hành chính có cái gì
giống như ở Nhật và ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật trọng nhiều về võ thuật hơn về
học thuật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về học thuật và coi thường võ thuật.
Người Đàng Trong không hoàn toàn xa người Nhật và lại cũng gần người Tàu, nghĩa
là ở giữa và cũng theo tinh thần của dân tộc mình, vừa trọng võ vừa chuộng văn
tuỳ theo cơ hội. Do đó họ thưởng và đặt lên các chức vụ và cấp bậc trong nước,
khi thì là các tiến sĩ, lúc thì là các tướng sĩ, họ chỉ định và cắt đặt lúc thì
người này khi thì người kia tuỳ theo nhu cầu.
Xứ Đàng Trong có nhiều trường đại học[1]
trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng
như ở Tàu. Họ cũng dạy các khoa, dùng những sách và tác giả như nhau, như Khổng
Tử theo kiểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên thâm, với giáo thuyết
sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng ta, chúng ta có Aristote[2].
Và thực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa đầy lý lẽ bác học, nhiều chuyện
lạ, nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục ngữ và nhiều sự tương tự, tất cả đều bàn
về thuần phong mỹ tục, như chúng ta có Seneca, Caton, và Ciceron [3].
Phải mất nhiều năm học mới có thể đọc được các câu, các chữ, và các hình để
viết. Cuốn sách họ chuộng hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết
học luân lý gồm có đạo đức học, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú
khi thấy và nghe họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca
hát. Họ phải làm như thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng
của nó, vì có rất nhiều, mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau. Vì thế,
để đàm thoại với họ thì cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc và phép đối
âm.
Tiếng nói thông thường thì khác với chữ viết
họ dạy và họ đọc khi học và viết. Cũng như ở nơi chúng ta tiếng bình dân chung
cho tất cả thì khác, còn tiếng Latinh chỉ dạy trong trường thì khác. [4]
Đây là điểm khác với Trung Hoa, văn nhân hay quý phái cũng chỉ có một thứ tiếng
nói gọi là quan thoại, nghĩa là tiếng các tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị.
Còn chữ viết như chữ in trong sách thì có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác
nhau. Vì thế các cha dòng Tên phải mất tám và có khi mười năm để học những sách
ấy trước khi trở nên tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp với họ. Nhưng
người Đàng Trong đã rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại chừng ba ngàn chữ họ
thường dùng để viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự và những sự khác không liên
quan tới sách in, thiết yếu phải soạn bằng chữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi
hơn, mặc dầu về sách viết và sách in, họ gắng theo người Tàu, nhưng về các việc
thường thức họ đã sáng chế ra bốn mươi tám chữ phối hợp với nhau để diễn đạt và
trình bày tất cả những gì họ muốn, không hơn không kém gì những vần a, b, c của
chúng ta.
Nhưng mặc dầu có thứ chữ này, chữ Hán vẫn rất
thông dụng ở Nhật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện lợn hơn để diễn đạt tư tưởng,
nhưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta khinh chê coi như chữ của đàn bà.
Việc phát minh tốt đẹp và tài tình về ngành
in đã được thực hiện ở Trung Hoa và Đàng Trong trước khi được biết đến ở Châu
Au, mặc dầu chưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ nhưng dùng cái đục hay dao mà
khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà họ muốn in trên sách. Rồi
họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho vào ép cũng như cách chúng ta
làm ở Châu Au khi người ta in trên phiến đồng hay vật gì tương tự.
Ngoài những sách chúng tôi đã nói là những
luận thuyết về luân lý, họ còn có những sách khác, như họ nói, giảng về những
sự thần linh như về việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ trụ, về linh hồn, về ma quỷ
thần thánh và nhiều giáo phái khác, những sách này gọi là sách kinh khác với
những sách đời gọi là sách chữ. [5]
Chúng tôi sẽ nói về lý thuyết các đạo chúa đựng trong những sách đó ở phần thứ
hai bản tường trình này, như vậy đúng chỗ của nó hơn.
Mặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong cũng
giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ dùng những
từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng khác nhau, nhưng
có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và dồi dào hơn về nguyên âm,
vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành âm nhạc và có khả năng phân biệt
các cung giọng và các dấu khác nhau [6].
Tiếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng dễ
hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có biến cách các danh từ [7]
nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết
về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay
thế cho tất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như
những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn
ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại
từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động
từ này như sau: tôi có, anh có, nó có [8].
Họ chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ các
thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi
đã có; về thì vị lai: tôi hoặc sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có
không bao giờ thay đổi. [9]
Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng
chuyên cần, tôi đã học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải tội được
nữa, tuy chưa được tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải
học bốn năm trọn [10].
Nhưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của
tôi, tôi đã nói rằng người Đàng Trong không những chỉ trọng các văn nhân, tán
thưởng trình độ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những chức vụ cao và có
thế giá, phát cho họ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý trọng những người can
tràng, có giá trị và giỏi giang về võ bị. Nhưng họ cai trị và khác chúng ta, họ
không có tục lệ làm như ở Châu Au chúng ta. Bởi vì đáng lý ra họ ban phát cho
các tướng lãnh có tài có công, như người ta thường làm nơi chúng ta, một lãnh thổ,
một bá tước địa, một thái ấp hầu tước để thưởng công họ, thì họ lại thưởng bằng
cách đặt dưới quyền người họ thưởng một số nhân đinh và một số nhân khẩu và
lính hầu nhất định của chính nhà vua [11].
Những người này ở bất cứ nơi nào trong nước đều phải nhận người được thưởng là
chủ, phải phục dịch bằng binh khí, trong tất cả mọi trường hợp người này cần
tới, nộp tất cả các khoản thuế mà cho người này như trước đó họ nộp cho chính
nhà vua vậy. Vì thế, thay vì chúng ta nói người này là chúa cai quản một địa
điểm nào, là bá tước hay vương hầu cai trị một lãnh thổ nào thì họ lại nói
người này là một nhân vật có năm trăm đinh, người kia có một ngàn đinh, chúa cứ
tăng số đinh cho người này, người khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền,
thêm thế giá, thêm nguồn lợi và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính
hầu mới. Về các cuộc chiến tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở đây,
tôi phải nói về một việc đáng được biết, có liên quan tới dân chính. Thứ nhất
họ xét xử các sự việc rất nhanh chóng, như người ta thường làm trong quân đội
và như người ta thường nói “trong thời chiến” (more belli), chứ không kéo dài
nơi tòa án qua đường lối các quan tòa, các công chứng viên, các biện lý với tất
cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm sai và các quan trấn thủ các tỉnh làm hết các
chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi ngày bốn giờ liền, trong một cái sân đẹp và
rộng, ngay giữa tư dinh của mình, hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều.
Những ai tranh tụng thì tới đó, trình bày khiếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay
quan trấn thủ tự vào cửa sổ mà nghe người này người kia lần lượt trình bày, kêu
cả. Thường thì các quan này là những người có óc phán đoán ngay thẳng, biết
nghe và có kinh nghiệm trong các vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách
xác đáng, nhất là để ý tới ý kiến của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp
nhận cho bên nguyên hay bên bị, nên họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ việc và
tức thì không trì hoãn, họ lên tiếng công bố án xử và người ta tức khắc cho thi
hành không khiếu nại hay hình thức tố tụng nào khác nữa, hoặc là án tử hình
hoặc là án phát vãng hay phạt trượng, phạt tiền: các ngài lên án phạt tội mỗi
người theo hình phạt luật định.
Các trọng tội thông thường phải thú nhận và
bị phạt nặng thì rất nhiều. Nhưng người ta trừng phạt nghiêm khắc nhất những kẻ
gian dối, trộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ nhất thú nhận là đã vu cáo một
người về một trọng tội mà người đó không phạm thì sẽ bị phát rất ngặt, nghĩa là
chịu hình phạt đáng lý ra người kia phải chịu nếu thực sự đã phạm cái tội người
ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta cáo gian đáng phải tử hình thì người cáo gian
này sẽ phải xử tử. Và thực tế cho thấy cách xử này là cách tốt nhất để biết
đích xác sự thực. Còn kẻ trộm cướp thì bị phạt chiếu theo của ăn trộm, ăn cướp,
nếu chúng lấy một của gì quan trọng thì phải chém đầu, nếu là của không đáng
giá bao nhiêu, thí dụ một con gà, thì bị chặt ngón tay nếu là lần thứ nhất, nếu
còn tái phạm thì bị chặt ngón khác, nếu bị bắt lần thứ ba thì bị cắt tai, lần
thứ tư thì bị cắt cổ.
Kẻ ngoại tình, phái nam cũng như phái nữ bất
kể, sẽ bị trừng phạt về trọng tội của họ bằng cách để cho voi giày theo cách
thức như sau. Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một thửa ruộng và trước
mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở giữa, tay chân bị trói, ở
ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt kẻ sắp bị xử và thi hành án xử
theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn, rồi nắm và ép chặt tội nhân và
nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người trông thấy, rồi tung lên cao và đón
tội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt xuống và vì nặng nên cắm sâu
vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống đất rồi dẫm chân lên và đạp cho tan
nát. Voi làm việc này mà không bỏ sót một điểm nào làm cho mọi người có mặt
sửng sốt và sợ hãi. Vì chứng kiến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải giữ
trung thành trong đạo vợ chồng.
Không phải ngoài đề vì chúng tôi vừa nhắc tới
hôn nhân, nếu chúng tôi kể qua ở đây mấy đặc điểm riêng biệt để kết thúc chương
này. Không bao giờ thấy người Đàng Trong, tuy còn là lương dân, lại kết hôn
trong những bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự nhiên cấm đoán, rất ít trong bậc
thứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị em họ [12].
Những cấp bậc khác được phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có một vợ. Thực ra,
những người giàu có, càng có thế giá và có của thì họ có tục lấy nhiều vợ mọn.
Họ còn cho là biển lận và keo kiệt nhựng ai không cưới nhiều vợ khi mình có đủ
tiền của để dễ dàng làm việc này. Những vợ mọn được gọi bà hai, bà ba, bà tư
tuỳ theo thứ tự mỗi người. Tất cả đều là nàng hầu của bà vợ cả. Bà này được
trọng nể là vợ đích thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này chọn các nàng hầu tuỳ
theo ý mình và cưới về cho chồng. Hôn nhân của họ không bền chặt vì luật xứ
Đàng Trong cho phép li dị, tuy không phải chỉ để tuỳ ý và tuỳ thích của bên này
hay bên kia. Để ly dị, điều cần thiết phải làm trước tiên là chứng tỏ được tại
sao mình xin ly dị, vì có nhiều tội nặng tỏ tường, nếu có tội thật thì được xin
ly dị và lấy người khác. Vì chồng quản lý tài sản của vợ nên họ cũng bỏ nhà
mình đến ở nhà vợ mới. Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các việc trong nhà, còn
chồng ở trong gia đình chẳng làm gì, không vất vả gì và nếu chỉ có một vài đồng
thi họ cũng bằng lòng vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và ăn mặc.
Chú thích
[1]
Nhưng thực ra có hoàn toàn như Borri nói không? Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng
bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi.
[2]
Aristote nhà triết học thời danh Hy Lạp thế kỷ 4 tr.c.n.
[3]
Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca thế kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2 tr.c.n,
Ciceron nhà hùng biện đại tài thế kỷ 1 tr.c.n.
[4]Thời
đó người ta còn dùng Latinh để giảng dạy ở các trường đại học, còn tiếng mẹ đẻ
thì mới manh nha.
[5]
Kinh là kinh điển như Tứ thư, Ngũ kinh, còn sách là sách viết thông dụng không
thuộc kinh điển.
[6]
Hoa ngữ có năm thanh, còn Việt ngữ có sáu thanh.
[7]
Chia động từ: conjugaison, biến cách: déclinaison, trong La ngữ.
[8]
Động từ tiếng Pháp avoir (có) j’ai (tôi có), tu as (anh có), il a (nó có), nous
avons (chúng tôi có), vous avez (các anh có), ils ont (chúng nó có).
[9]
Một động từ avoir có thể thay đổi hình dạng rất nhiều tuỳ theo khi nói về hiện
tại, quá khứ, tương lai, nghi vấn, truyền khiến v.v…
[10]
Borri thú nhận, tuy biết tiếng Việt, nhưng chưa đủ để giảng dạy giáo lý cho chu
đáo.
[11]
Ở Châu Au nhà vua ban bổng lộc cho công hầu bá tước bằng đất đai thuộc quyền sở
hữu của họ và họ có thể truyền lại cho con cháu. Ở Việt Nam , họ chỉ
được lợi tức, nghĩa là thay mặt vua thu thuế các hộ, hoặc một trăm hoặc một
nghìn hay hơn nữa. Họ không có quyền để lại cho con cháu, nhà vua vẫn giữ quyền
sở hữu.
[12]
Thường gọi là anh em thúc bá.
CHƯƠNG 7: LỰC LƯỢNG CỦA CHÚA
ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở đầu bản ký sự này là Đàng Trong
trước kia là một tỉnh tách rời khỏi xứ Đàng Ngoài. Cụ cố [1]
của chúa đương thời đã vô cớ chiếm đoạt, lập nhà nước và phản nghịch cùng chúa
Đàng Ngoài. Rồi họ trở nên mạnh dạn hơn khi được cung cấp trong một thời gian
rất ngắn, nhiều thứ súng lớn tịch thu và lượm nhặt được do tàu và thuyền chiến
bị đắm trôi dạt vào bờ biển: thực ra tàu người Bồ cũng như người Hòa Lan[2]
thường đâm vào cồn đá và người bản xứ vớt được như ngày nay có thấy.
Nguyên trong phủ chúa cũng có tới sáu mươi cỗ
và có những cỗ rất lớn. Ngừơi Đàng Trong tinh xảo và có kinh nghiệm sử dụng, họ
vượt cả người Châu Au đến nỗi họ chẳng làm gì khác mà chỉ ngày ngày bắn đạn giả
và rất lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho là có thế lực đến nỗi vừa thấy những
chiếc tàu của Châu Au chúng ta cập bến của họ thì liền bắn súng để thách thức,
nhưng người của chúng ta biết rằng súng của họ chẳng địch lại được súng của
chúng ta, nên người của chúng ta hết sức tránh né tầm bắn. Người của chúng ta
biết rằng theo kinh nghiệm, ta có thể chắc chắn bắn vào chỗ nào ta muốn với
súng của mình, còn họ với súng hỏa mai là một thứ gậy thì không nhằm bắn trúng
được. Điều giúp chúa rất đắc lực trong cuộc dấy binh chống chúa Đàng Ngoài, đó
là ngài có một trăm thuyền chiến và hơn nữa, chúa rất mạnh về đường biển, như
đã mạnh về đường bộ vì có súng ống. Thế là chúa dễ dàng thi hành ý đồ và âm mưu
chống chúa Đàng Ngoài là chủ mình. Việc họ buôn bán thường xuyên với người Nhật
đã đem lại cho chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản, với nước
thép rất tốt. Trong nước còn có rất nhiều ngựa, tuy thấp bé hơn, nhưng rất tốt
và rất can đảm, dùng để cưỡi và bắn nỏ, hằng ngày không ngớt thao luyện. Thế
lực của chúa rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể cho tuyển ngay được
tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn còn sợ
chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần. Vì thế, để có sự thỏa
hiệp và giao hảo tột thì chúa nhận triều cống về những gì vương quốc của ngài
có thể có cho xứ Đàng Ngoài, nhất là vàng, bạc, lúa gạo, cung cấp ván và gỗ để
đóng thuyền chiến.
Về binh pháp và cách cai trị trong chinh
chiến thì cũng gần như ở Châu Au. Họ cũng giữ các luật lệ để huấn luyện binh
lực, đánh du kích, tấn công và rút quân.
Ngoài ra chúa còn chuẩn bị vũ khí liên tục và
mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân binh để
cầm cự với vua Xiêm. Vì thế mà vũ khí của Đàng Trong đã lừng danh và nổi tiếng
khắp các nơi qua đường biển cũng như đường bộ.
Ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như đã
nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton. Và người ta sẽ không
lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn có tới một trăm thuyền chiến có
đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến khi người ta biết những thứ này đuợc
thành lập như thế nào.
Cần phải biết rằng người Đàng Trong không có
lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ sai để chèo thuyền [3].
Khi họ cần người để chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì tức khắc
họ có thể tuyển mộ ngay được đủ số theo cách thứ sau đây: Họ ngấm ngầm phái đội
trưởng và uỷ viên lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt ngay lập tức
tất cả những trai tráng có sức cầm tay chèo và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa
tới con nhà sang hay người có thế giá, bởi vì không ai được miễn. Việc này thực
ra không khó khăn gì như lúc đầu người ta tưởng, vì thứ nhất họ được đối xử tốt
trong thuyền cũng như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa, vợ
con họ và cả gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết tất cả những gì họ cần,
tuỳ theo cấp bậc, thanh thế, trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và những
người này không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi cần và họ chiến
đấu rất anh dũng. Để làm việc này, người ta trao cho mỗi người một súng hỏa mai
hay musqueton với đạn, dao hay mã tấu. Người Đàng Trong không giả đò, họ rất hăng
hái và dũng cảm, với mái chèo, súng và dao, họ can đảm tấn công và trong hỗn
chiến, họ tỏ rõ lòng dũng cảm hiếm có của họ. Thuyền chiến của họ không lớn
cũng không đặc biệt rộng như của ta, nhưng rất lẹ và được trang trí vàng bạc
trông rất ngoạn mục. Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất
thì toàn bằng vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị
cao, và lý do là vì người thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất
trận, thế cho nên rất hợp lý, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở chỗ
nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền.
Trong số những vũ khí tự vệ dùng trong trận
chiến thì có những chiếc khiên nhỏ hình bầu dục, hoàn toàn rỗng, cao, có thể dễ
dàng chắn cả thân người và rất nhẹ, dễ cầm và không hề vướng víu bận bịu chút
nào. Cũng rất có ích cho việc bảo vệ thành trì ở xứ này, đó là cách thức họ
dựng nhà chỉ toàn bằng ván và trên cột gỗ như chúng tôi đã nói. Nếu quân địch
hùng mạnh kéo tới và họ không muốn chống cự, lúc đó mỗi người đem theo nồi niêu
bát đũa và trốn lên núi, sau khi châm lửa đốt nhà và chỉ để lại không gì khác
ngoài đống tro tàn. Quân địch không thể tìm ra được thứ gì để ăn và sinh sống
nên họ phải rút quân về, và họ trở về dựng lại những căn nhà khác trong một
thời gian rất ngắn và khôi phục lại thành phố như trước.
Chú thích
[1]
Ông cố, chỉ Nguyễn Kim.
[2]
Coi Pierre Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viet Nam de du Campa
EFEO, 1972. Tác giả chứng minh cụ thể là vào thế kỷ 16-17 thương gia người Bồ,
Hà Lan thường đi dọc bờ biển Đàng Trong, rồi chiếu thẳng đi Macao hay Nhật Bản,
ít khi lên tới Đàng Ngoài. Vì thế trong một thời gian, chưa ai để ý tới xứ Bắc.
[3]
Bên Châu Au người ta dùng tù binh khổ sai để chèo thuyền, vì thế nói đến
galères là nói hình khổ nhục nhã, trái với Việt Nam , chèo thuyền chiến là việc của
quân binh thiện nghệ.
CHƯƠNG 8: VỀ THƯƠNG MẠI VÀ
CÁC HẢI CẢNG Ở XỨ ĐÀNG TRONG
Xứ Đàng Trong có rất nhiều thứ thuận lợi cho
sinh hoạt con người như chúng tôi đã nói trước đây. Vì thế mà dân xứ này không
ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để buôn bán, cũng như không bao
giờ ra khơi quá xa đến độ không còn trông thấy bờ biển và lãnh thổ của tổ quốc
yêu quý của họ [1],
mặc dầu họ dễ dàng cho người ngoại quốc vào hải cảng của họ và họ thích thú
thấy người ta tới buôn bán trong lãnh thổ của họ, không những từ những nước và
tỉnh lân cận mà từ cả những xứ rất xa. Về vấn đề này, họ không cần phải dùng
những mánh lới gì lớn, người ngoại quốc đủ bị quyến rũ bởi đất đai phì nhiêu và
thèm muốn những của cải tràn đầy trong xứ họ. Không những người xứ Đàng Ngoài,
xứ Campuchia và Phúc Kiến và mấy xứ lân cận đến buôn bán, mà mỗi ngày người ta
còn thấy các thương gia đến từ những miền đất xa xôi như Trung Quốc , Macao ,
Nhật Bản, Manila và Malacca. Tất cả đều đem bạc tới xứ Đàng Trong để đem hàng
hóa xứ này về. Thực ra không phải là mua hàng hóa mà là trao đổi với cùng một
thứ bạc kể như hàng hóa, lúc cao lúc hạ tuỳ theo có nhiều hay có ít bạc, tuỳ
theo có nhiều hay ít tơ lụa và những mặt hàng khác.
Tiền dùng để mua mọi thứ là thứ tiền bằng
đồng và tất cả đều có giá trị bằng gần một đồng “double” và năm xu của đồng này
thì bằng một “êcu”. Đồng tiền này rất tròn, có khắc con dấu và biểu hiệu nhà
vua. Mỗi đồng đều có lỗ ở giữa để xâu thành từng nghìn đồng, mỗi chuỗi hay mỗi
dây giá bằng hai “êcu”.
Người Tàu và người Nhật là những người làm
thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ phiên họp hàng năm ở một hải
cảng và kéo dài tới chừng bốn tháng. Người Nhật chở trên thuyền của họ giá trị
bằng bốn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở trong tàu họ gọi là “somes” [2],
rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều hàng hóa khác của xứ họ. Chúa thu được lợi nhuận
lớn trong việc buôn bán này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra và
cả nước đều kiểm tra được rất nhiều mối lợi không thể tả hết. Vì người Đàng
Trong không có đồ kỹ nghệ và thủ công nào, không biết kỹ thuật cơ giới, vì đất
đai phì nhiêu và thổ sản dồi dào nên họ ăn không ngồi rồi, và mặt khác họ dễ
dàng chuộc những của lạ từ các nơi khác đưa tới, nên họ rất hám và chạy theo
mua cho bằng được với bất cứ giá nào. Họ không biết tiết kiệm tiền khi sắm
những thứ thực ra chẳng đáng giá bao nhiêu, tỉ như bàn chải, kim khâu, vòng
tay, hoa tai bằng thuỷ tinh và những hàng lặt vặt. Tôi nhớ có một người Bồ đem
từ Macao tới Đàng Trong một lọ đầy kim khâu, tất cả chỉ giá hơn ba mươi
“ducat”, nhưng đã được lời tới hơn một ngàn, vì ông ta bán mỗi chiếc một đồng
“rêal” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Macao ông ta mua không tới một “double”.
Sau cùng họ tranh nhau mua tất cả những gì họ thấy miễn đó là đồ mới lạ và từ
xa tới, họ tiêu tiền một cách dễ dàng. Họ ham chuộng tất cả các mặt hàng mũ
nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi và tất cả các loại áo của chúng ta vì rất
khác các đồ vật của họ. Nhưng họ thích san hô nhất.
Còn về hải cảng thì thật là lạ lùng, chỉ
trong khoảng hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm được hơn sáu mươi cảng,
tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ở ven bờ có rất
nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và
cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam [3].
Người ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là
Pulluciambello (Hội An). Các cửa biển cách nhau chừng ba hay bốn dặm, kế đó
biển chia thành hai nhánh đi sâu vào đất liền chừng bảy hay tám dặm, làm thành
như hai co sông luôn tách rời nhau để rồi cuối cùng gặp nhau và đổ vào một con
sông lớn. Tàu bè từ hai phía tới cũng đi vào con sông này[4].
Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người
Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn
bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố
lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Tàu và
một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống
theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và phong tục của người Tàu và người
Nhật cũng vậy.
Hơn nữa, chúa Đàng Trong không đóng cửa trước
một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc,
người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa
của họ. Vì thế người Bồ ở Macao
mới có ý định sai một sứ giả tới chúa để nhân danh mọi người khẩn khoản chúa
trục xuất người Hà Lan là địch thù của họ. Để làm việc này, họ dùng một thuyền
trưởng tên là Ferdinand de Costa. Ông này đã thành công, dĩ nhiên với nhiều khó
khăn. Ông đã làm cho chúa ra sắc lệnh cấm người Hà Lan tới gần lãnh thổ ngài,
nếu không nghe thì nguy tới tính mạng. Nhưng vì người Bồ ở Macao sợ sắc lệnh đó không được tuân thủ
nghiêm chỉnh, nên họ lại sai một phái đoàn mới tới Đàng Trong, để nắm chắc lệnh
cấm đó. Họ cũng căn dặn đoàn đại biểu phải làm cho chúa hiểu là, vì ích lợi của
ngài và nếu ngài không cẩn thận thì e rằng, với thời gian người Hà Lan vốn rất
khéo léo và rất quỷ quyệt, sẽ dám xâm chiếm một phần xứ Đàng Trong như chúng đã
làm ở mấy nơi trong nước An Độ. Nhưng có mấy người am hiểu tình hình xứ này bàn
là không nên nói thế với chúa, nhưng cách thế đích thực phải dùng là cho phép
người Hà Lan tới buôn bán trong xứ và mời cả nước Hà Lan tới nữa. Phương châm
của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới. Thật
là hoàn toàn trái ngược với vua Trung Hoa, ông này sợ tất cả, đóng cửa không
cho người ngoại quốc vào và không cho phép buôn bán trong nước ông. Các sứ giả
phải nại nhiều lý do mới được như ý sở cầu.
Chúa Đàng Trong tỏ ra thích để cho người Bồ
đến buôn bán ở nước ngài một cách lạ lùng. Và đã mấy lần ngài cho họ ba hay bốn
địa điểm ở nơi phì nhiêu nhất và phong phú nhất trong vùng hải cảng Đà Nẵng, để
họ xây cất một thành phố, với tất cả những gì cần thiết, cũng như người Tàu và
người Nhật đã làm. Và tôi mạn phép nói lên cảm tưởng về việc này với hoàng đế
công giáo [5],
tôi xin nói rằng ngài nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp
chúa Đàng Trong đã đưa ra và sớm xây cất ở đó một thành phố tốt đẹp, làm nơi an
toàn và cư trú, lại dùng để nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi Trung
Quốc. Cũng có thể giữ một hạm đội sẵn sàng chống lại người Hà Lan. Họ đi Tàu
hay đi Nhật, dù muốn dù không, họ bó buộc phải qua giữa eo biển nằm trong bờ
biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ Phú Yên và Quy Nhơn với những quần
đảo Chàm.
Đó là một ít điều tôi tưởng là nên tường
thuật một cách chính xác về tình hình vật chất ở xứ Đàng Trong, theo sự hiểu
biết của tôi, trong thời gian mấy năm tôi ở đó [6]
như sẽ biết nhiều hơn trong phần thứ hai của bản tường trình này.
Chú thích
[1]
Trong Lịch sử Đàng Ngoài, De Rhodes nói rõ hơn tại sao người Việt Nam không
thành thạo ngành hàng hải, mặc dầu có nhiều bờ biển và nhiều hải cảng tốt, xem
sd. ch.16, phần 1.
[2]
Thuyền mành hay thuyền tam bản?
[3]
Hội An
[4]
Hội An ở phía bắc sông Thu Bồn, gần cửa sông Cửa Đại. Hàng từ sông Thu Bồn,
sông Vĩnh Điện, sông Trường Giang chuyển đến cũng dễ dàng.
[5]
Các vua Bồ, Tây, Pháp thời đó thường xưng mình là các vua hay hoàng đế công
giáo (les rois catholiques).
[6]
Tức từ 1618 tới 1622
CHƯƠNG 9: QUAN TRẤN THỦ QUY
NHƠN ĐƯA CÁC CHA DÒNG TÊN ĐẾN TỈNH ÔNG CAI QUẢN VÀ CHO DỰNG MỘT TRÚ SỞ VÀ MỘT
NHÀ THỜ CHO CÁC CHA
Cha Buzomi, cha De Pina và tôi, chúng tôi bỏ
Hội An để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông
đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ông luôn luôn để
chúng tôi ở cùng nhà với ông và đối xử với chúng tôi một cách rất đặc biệt.
Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt con người bắt buộc ông phải xử như
thế.
Ông dành một chiếc thuyền để phục dịch riêng
cho một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ
đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc này. Chúng tôi trẩy đi
suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng chiều đậu bến [1].
Thường thì các hải cảng đều ở cạnh các thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh Quảng
Nghĩa. Nơi đây ông có quyền như ở Quy Nhơn, mọi người đều ra đón, chúc mừng và
tỏ lòng quy phục ông với rất nhiều lễ vật quý và chúng tôi cũng là những người
thứ nhất được dự phần, do lệnh quan trấn thủ vì ông muốn thế. Mọi người đều lấy
làm lạ khi thấy chúng tôi được trọng đãi và vì thế người ta quý mến chúng tôi,
có thịnh tình với chúng tôi. Và đó cũng chính là điều quan trấn thủ muốn, ông
cũng nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp phải xử trị
một trọng tội nào đó. Chúng tôi chưa kịp mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng
lòng ban ngay rồi. Do đó chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không kém quan
trấn thủ. Thấy chúng tôi có lòng bác ái và thương xót hết mọi người nên mọi
người đều quý mến và tìm đến chúng tôi.
Ngoài ra ông muốn trong suốt cuộc hành trình
người ta đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là những quan lớn, tới đâu ông
cũng cho tổ chức trò chơi và hội hè cho dân chúng, khi thì cho đấu chiến
thuyền, lúc thì cho đua thuyền, đặt giải thưởng cho thuyền nào thắng cuộc.
Không ngày nào ông không thân chinh sang thuyền chúng tôi. Ông rất thích trao
đổi với chúng tôi, nhất là khi chúng tôi nói về sự cứu rỗi đời đời và về đức
tin đạo thánh của chúng tôi. Cứ thế, rồi chúng tôi tới tỉnh Quy Nhơn. Nhưng
chúng tôi còn phải đi mấy ngày đường nữa mới về được tới dinh quan trấn thủ.
Ông muốn cho chúng tôi đi đường bộ để được thoải mái và vui thú. Thế là ông
truyền đưa bảy cỗ voi tới, tất cả đều đã sẵn sàng. Ông còn muốn dành cho chúng
tôi cái danh dự đặc biệt là mỗi người chúng tôi có riêng một cỗ voi, kèm theo
một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa. Vì cuộc hành trình này chỉ là
để tiêu khiển, nên chúng tôi đi mất tám ngày, tới đâu cũng được tiếp đón và đối
xử như một ông hoàng, nhất là ở nhà một bà chị của ông, người ta tiếp chúng tôi
rất long trọng trong một bữa tiệc rất linh đình. Không những vì có rất nhiều
món khác nhau, mà còn vì có nhiều cách nấu nướng đặc biệt và nhiều thứ thịt
thà, dọn theo bếp Châu Au [2]
của chúng tôi, mặc dầu cả quan trấn thủ, cả mọi người trong nhà đều không dùng
được.
Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh. Sau tất
cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón một
cách rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành cho các ông hoàng bà chúa. Tám
ngày tiệc tùng liên tiếp và cỗ bàn linh đình, ông còn để chúng tôi ngồi ngai
của chúa. Chính ông, bà vợ và con cái ông săn sóc chúng tôi, ăn chung với chúng
tôi, làm cho cả dinh đều bỡ ngỡ. Ai cũng đồng thanh quả quyết rằng người ta chỉ
dành những danh dự này cho bản thân các chúa mà thôi. Đó là cơ hội cho mấy
người nói và đồn thổi khắp xứ này rằng chúng tôi là những bậc đế vương tới xứ
này để bàn những việc rất quan trọng. Nghe lời đồn đó, quan trấn thủ rất lấy
làm hài lòng và tuyên bố trong cuộc họp chung các quan trong phủ rằng: thật ra
các cha là con vua con chúa, tức là các thiên sứ đến những vùng đất này, không
phải vì thiếu thốn hay cần thiết thứ gì, vì ở nước các cha không thiếu gì, trái
lại, mọi của cải đều dư dật, nhưng chỉ vì các cha hăm hở sốt sắng cứu vớt các
linh hồn.
Viên quan đức độ này, khi hoàn toàn còn là
lương dân, đã là người rao giảng Phúc âm. Ông làm cho mọi người nghe ông thì
đều kính phục ông, nhất là ở bất cứ nơi nào người ta cũng coi ông là một người
rất mực thông thái.
Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết là
chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc âm hơn, còn nếu ở trong
tư dinh thì không dễ dàng cho công việc chúng tôi, vì ở xa tỉnh chừng một dạm
rưỡi, trong miền thôn quê, theo kiểu ở đây. Quan trấn đã vui lòng giữ chúng tôi
ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và ông đã buồn phiền khi phải xa
chúng tôi: thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên ông nghe theo điều chúng
tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất
tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm,
trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà
nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông
sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả
những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những việc ông
vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng tôi leo lên lưng
voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm
và rộng tới một dặm rưỡi. Ở đây chúng tôi cũng được tiếp đãi với tất cả sự sang
trọng, quan trấn đã truyền phải dành cho chúng tôi. Nhưng vì không chịu được
vắng mặt lâu hơn, ngay ngày hôm sau, ông thân hành đến thăm chúng tôi và kiểm
tra xem người ta có sửa soạn nhà chúng tôi tươm tất và thuận tiện không. Ông
còn nói với chúng tôi rằng chúng tôi là người ngoại quốc không có nhiều tiền
bạc, không có nhiều của cải, không có đủ sự cần dùng, nên ông nhận cung cấp cho
chúng tôi mọi sự cần thiết. Thế là ông truyền mỗi tháng người ta đem đến cho
chúng tôi một món tiền khá lớn và mỗi ngày người ta đưa tới nào là thịt thà, cá
mú, thóc gạo, không phải chỉ đủ cho chúng tôi mà còn cho các người thông ngôn
và người làm nữa. Không chỉ có thế, ngày nào ông cũng gửi cho chúng tôi quà
bánh, rất đầy đủ, không kể các đồ vật khác để bồi dưỡng chúng tôi một cách hậu
hĩ. Để tỏ lòng trọng kính chúng tôi và tạo uy tín cho chúng tôi trước mọi
người, một ngày nọ, ông mở một phiên tòa ngay trong sân nhà chúng tôi, theo
cách thức được thực hiện ở Đàng Trong như chúng tôi đã nói. Trong phiên tòa
này, ông phải xử mấy người phạm trọng tội, mỗi người đều được xử theo tính chất
của tội phạm. Trong số các phạm nhân có hai người bị xử tử bằng vũ khí và phải
chịu hình tên bắn. Nhưng trong khi người ta trói các người này thì chúng tôi
can thiệp để xin ân xá cho họ. Ông liền tha ngay và truyền cho cởi dây trói tức
thì. Ông tuyên bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá này cho một người nào
cả. Nhưng vì những vị nhân đức này, ta không thể khước từ được.
Rồi quay về phía chúng tôi, ông giục chúng
tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để dựng một nhà thờ. Chúng tôi
liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là rất hợp và rất tiện để làm
việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư dinh ở ngoài thành phố. Ba ngày
sau, người ta đến cho chúng tôi biết là nhà thờ đã được đem đến. Được tin đó
chúng tôi rất vui mừng và sung sướng, chúng tôi ra khỏi nhà, hăm hở tới coi sự
lạ lùng này, chúng tôi cũng muốn biết xem nhà thờ có thể đem đến bằng cách nào.
Chúng tôi biết là nhà thờ phải được làm bằng ván lắp, theo họa đồ đã vẽ. Chúng
tôi cũng được biết là tòa nhà này rất lớn và rất cao, phải được đặt trên những
cột cao và lớn. Tức thì chúng tôi phát hiện ra trong cánh đồng một đạo quân
trên một nghìn người khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi
người lực lưỡng và khoẻ mạnh nhất khênh. Còn những người khác thì vác xà, người
khênh ván, người khênh nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác.
Tất cả đều trật tự mang đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tôi chật ních
người. Chúng tôi niềm nở đón tiếp họ với niềm hân hoan các bạn có thể nghĩ được
là như thế nào. Chỉ có một điều làm cho chúng tôi buồn phiền là trong nhà không
có gì để ít ra cho họ ăn qua loa. Đám người rất đông này tuy được quan trấn trả
công hậu hĩ nhưng chúng tôi cũng thấy xấu hổ và bẽ mặt nếu để họ ra đi mà không
cho họ chút gì lót dạ. Nhưng chúng tôi không phải lo lắng lâu khi thấy mỗi
người ngồi trên đồ vật người ta căn dặn phải kỹ càng giữ lấy và khi đã sẵn sàng
họ mở khăn gói ra, trong đó có tất cả dụng cụ nhà bếp gồm có nồi, thịt, cơm và
cá. Họ nhóm lửa và tự nấu nướng lấy. Không ồn áo. Không xin xỏ gì. khi họ ăn
xong thì một người chủ thầu lấy dây đo địa điểm, đo khoảng giữa hai cột, rồi
ông cho gọi người đem tới dựng vào chỗ. Sau đó ông gọi tất cả lần lượt khuân
các bộ phận khác tới và mỗi người đem lắp xong là ra về ngay. Cứ thế, tất cả
đều làm việc trong trật tự không nhầm lẫn. Ai cũng làm đúng cách thức, và tất
cả khối lớn lao đó được dựng nội nhật trong một ngày, làm cho chúng tôi rất mực
sung sướng. Nhưng hoặc là vì người ta làm quá vội vã, hoặc là vì người lắp đặt
không cẩn thận nên ngôi nhà không đứng thẳng lắm, trái lại hơi nghiêng một
chút. Người ta kể cho quan trấn biết, thế là ông cho gọi kiến trúc sư tới và
truyền cho phải làm lại ngay, nếu không sẽ bị cắt gân chân và phải gọi tất cả
ngần ấy thợ trở lại để làm cho xong. Kiến trúc sư tuân lệnh và cho dỡ hết, rồi
với tất cả khéo léo và thận trọng hơn, ông cho làm lại thật đúng và trong không
bao lâu công việc đã hoàn thành.
Để biết rõ về quan trấn đạo hạnh đã tận tâm
lo việc của chúng tôi và rất quý trọng công việc đó, thì tôi sẽ kể một việc rất
đặc biệt để kết thúc chương này. Số là có những làn gió nồm rất nồng nực thường
nổi lên và thổi liên tục vào các tháng sáu, bảy và tám gây nên một sức nóng bức
lạ lùng làm cháy, làm khô héo và thiêu huỷ nhà cửa vì chỉ làm bằng gỗ. Do đó
chỉ một tia lửa nhỏ vì vô ý hay do cách nào khác rơi vào thì cũng có thể làm lửa
bốc lên ngay lập tức như châm diêm đốt vậy. Vì thế, thường xảy ra nhiều vụ hỏa
hoạn lớn ở khắp lãnh thổ trong ba tháng đó. Một khi lửa đã bén vào một nhà thì
trong nháy mắt ngọn lửa từ nhà này sẽ lan sang hết các nhà khác, lần lượt thẳng
tắp theo hướng gió thổi và biến tất cả thành tro một cách thảm hại. Để tránh
nguy cơ này, nhất là tránh cho nhà thờ chúng tôi ở ngay giữa thành phố và cũng
để cho người ta biết chúng tôi được quan trên quý trọng đến mức nào, ông ra sắc
lệnh bắt tất cả các nhà ở cùng hàng với nhà chúng tôi, theo hướng luồng gió
nóng thổi, phải dỡ mái xuống trong hai tháng đó. Và số nhà phải để trống mái đó
nhiều đến độ có thể chiếm một khoảng rộng ít là hai dặm Ý. Và ông đã chủ ý ra
lệnh như vậy để nếu lửa bén vào một nhà nào trong những nhà ấy thì dễ ngăn cản
không cho nó bén sang nhà chúng tôi. Mọi người đều nghiêm chỉnh thi hành vì
danh dự và sự trọng kính họ dành cho ông.
Chú thích
[1]
Từ Hội An đi Quy Nhơn bằng đường biển
[2]
Các cha khoản đãi viên quan bằng các món ăn Au.
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=102&ict=548
Baccarat And Poker | Free No Deposit Bonus Codes
Trả lờiXóaIn this guide, we take a look at the best Baccarat online casinos available for US players. febcasino Read our 바카라 review to 메리트카지노 learn how to play the game and win.